/ Nghiên cứu - Trao đổi
/ Áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội

Áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội

23/04/2025 11:06 |8 ngày trước

(LSVN) - Bài viết tập trung phân tích lý luận về hình phạt và áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội theo quy định của Luật Tư pháp người chưa thành niên đồng thời kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về vấn đề này, thể hiện tính đúng đắn, nghiêm minh của pháp luật.

Trong khoa học pháp lý, định nghĩa về hình phạt đóng vai trò vô cùng quan trọng. Việc quy định cụ thể, đúng đắn về hình phạt góp phần hoàn thiện cơ sở pháp lý cũng như hiệu quả trong thực tiễn công tác đấu tranh phòng chống các loại tội phạm. Tuy vậy, hiện nay vẫn còn nhiều quan điểm đưa ra khi phản ánh khái niệm về hình phạt.

Dưới góc độ ngôn ngữ học, theo Đại từ điển tiếng Việt, hình phạt được định nghĩa là: “Hình thức trị tội tương ứng với tội trạng của nạn nhân”[1]. Dưới góc độ khoa học luật hình sự, PGS.TS Trịnh Tiến Việt (trường Đại học Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội) cho rằng: “Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước, do Tòa án quyết định áp dụng trong bản án có hiệu lực pháp luật đối với người hoặc pháp nhân thương mại bị kết án có nội dung tước bỏ hay hạn chế quyền, lợi ích của các chủ thể tương ứng đó, qua đó nhằm giáo dục, cải tạo và phòng ngừa tội phạm”[2].

Dưới góc độ thực tiễn sau khi nghiên cứu những quy định của pháp luật hình sự về vấn đề này, luật sư Đinh Văn Quế cho rằng: “Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước được quy định trong Bộ luật Hình sự, do Tòa án quyết định áp dụng đối với người hoặc pháp nhân thương mại phạm tội nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người, pháp nhân thương mại đó” [3].

Ngoài ra, vẫn còn một số định nghĩa khác nhau khi tiếp cận về vấn đề hình phạt. Nhìn chung, các khái niệm này đều làm nổi bật tính cưỡng chế nghiêm khắc của hình phạt đối với chủ thể bị áp dụng và góp phần nâng cao hiệu quả của hoạt động tố tụng hình sự.

Bởi vậy, việc nghiên cứu và so sánh những khái niệm về hình phạt góp phần là rõ được nội hàm, đặc điểm của vấn đề này phù hợp với thực tiễn áp dụng.

Ảnh minh họa.

Ảnh minh họa.

Theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015: “Người chưa thành niên là người chưa đủ 18 tuổi” [4]. Đây là đối tượng đặc biệt được pháp luật quan tâm, bảo vệ vì đang trong quá trình giai đoạn phát triển về thể chất và tâm sinh lý. Nhóm người này có những đặc điểm tâm lý khác biệt so với người trưởng thành, dẫn đến khả năng nhận thức và kiểm soát hành vi còn có những hạn chế nhất định. Vì vậy, đối tượng này rất dễ bị tác động, lôi kéo và hứa hẹn bởi những đối tượng xấu mặc dù ý thức phạm tội ở đội tuổi này chưa được hình thành rõ nét. Do vậy, Luật Tư pháp người chưa thành niên phạm tội đã quy định cụ thể việc áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội.

Khác so với người trưởng thành, hình phạt áp dụng với người chưa thành niên phạm tội thường nhẹ hơn và có những điểm khác biệt cơ bản như: Mức hình phạt thấp hơn so với người đã thành niên phạm tội tương tự; hạn chế tối đa việc áp dụng hình phạt tù; ưu tiên áp dụng các biện pháp giáo dục, răn đe không tước tự do; bảo đảm quyền lợi hợp pháp của người chưa thành niên trong quá trình áp dụng hình phạt; mục đích chính là giúp người chưa thành niên nhận thức được sai trái, sửa chữa lỗi lầm và tái hòa nhập cộng đồng. Những đặc điểm này thể hiện sự nhân đạo, khoan hồng của pháp luật, phù hợp với tâm sinh lý lứa tuổi và thiên về giáo dục, cải tạo hơn trừng phạt. Do đó, các loại hình phạt và mức phạt thường nhẹ hơn so với người đã thành niên phạm tội tương tự. Qua đó, hình phạt với người chưa thành niên phạm tội được hiểu là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước, được quy định trong hệ thống pháp luật hiện hành, do Tòa án có thẩm quyền xét xử và quyết định áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người chưa thành niên phạm tội.

Bộ luật Hình sự năm 2015 đã có những điều chỉnh và hoàn thiện quan trọng về hệ thống hình phạt áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Theo quy định tại Điều 98 Bộ luật Hình sự năm 2015 thì hệ thống hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội gồm 04 loại hình phạt: Cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, tù có thời hạn. Đồng thời, Bộ luật Hình sự năm 2015 cũng quy định không áp dụng hình phạt bổ sung đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Đây là những nội dung quan trọng giúp các cơ quan tiến hành tố tụng sử dụng làm căn cứ áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Tuy nhiên, thực tiễn quá trình áp dụng cho thấy, việc quy định không tách biệt về hình phạt giữa người dưới 18 tuổi (hay người chưa thành niên) với người trưởng thành dẫn đến những tác động tiêu cực, nặng nề, không tốt với người chưa thành niên. Mặt khác, những phiên tòa như vậy, sẽ do các Thẩm phán không hiểu nhiều về tâm lý người chưa thành niên nên không đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho những đối tượng này. Từ yêu cầu đó, Luật Tư pháp người chưa thành niên năm 2024 đã ra đời.  

Bên cạnh việc quy định một số nội dung mới có liên quan, Luật Tư pháp người chưa thành niên năm 2024 đã thay thế các quy định về hình phạt được áp dụng của Bộ luật Hình sự năm 2025 đối với người chưa thành niên phạm tội, cụ thể như sau:

Thứ nhất, hình phạt cảnh cáo

Luật Tư pháp người chưa thành niên phạm tội đã quy định một điều luật riêng về việc áp dụng hình phạt cảnh cáo đối với người chưa thành niên phạm tội. Điều kiện áp dụng hình phạt cảnh cáo đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội nghiêm trọng do vô ý, phạm tội ít nghiêm trọng và có tình tiết giảm nhẹ, nhưng chưa đến mức miễn hình phạt. Hình phạt này mang tính giáo dục sâu sắc, thể hiện sự khiển trách công khai của Nhà nước đối với hành vi phạm tội. Hình phạt này không gây thiệt hại về tài sản hay hạn chế thể chất, nhưng có thể gây ra những thiệt hại nhất định về mặt tinh thần. Hình phạt cảnh cáo được Tòa án tuyên đọc công khai tại phòng xét xử. Trong một số trường hợp nhất định, quyết định cảnh cáo có thể được công bố trên phương tiện truyền thông, nơi làm việc hoặc nơi cư trú của người chưa thành niên phạm tội.

Thứ hai, hình phạt tiền

Luật Tư pháp người chưa thành niên quy định về hình phạt tiền đối với người chưa thành niên phạm tội như sau: Phạt tiền được áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội, nếu người đó có thu nhập hoặc có tài sản riêng. Có thể thấy, phạt tiền là việc Tòa án buộc người chưa thành niên phạm tội nộp một khoản tiền nhất định theo quy định của pháp luật để sung vào công quỹ Nhà nước. Mục đích của hình phạt này là giáo dục người chưa thành niên phạm tội có ý thức tuân thủ pháp luật. Đối tượng áp dụng là người từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi và từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội, có thu nhập hoặc tài sản riêng. Mức phạt lần lượt không quá một phần bà và một phần hai mức phạt tiền mà điều luật quy định đồng thời không quy định mức tối thiểu.

Thứ ba, hình phạt cải tạo không giam giữ

Hình phạt cải tạo không giam giữ là một hình phạt nghiêm khắc hơn các hình phạt không giam giữ khác nhưng nhẹ hơn tù có thời hạn. Mục đích của hình phạt này là nhằm giúp người phạm tội có cơ hội sửa chữa sai lầm, giáo dục họ trở thành người có ích cho xã hội. Đối tượng áp dụng trong trường hợp này là người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng do vô ý hoặc phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng hoặc người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng. Khi áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ đối với người chưa thành niên phạm tội thì không khấu trừ thu nhập của họ và thời hạn cải tạo không giam giữ không quá một phần hai thời hạn theo luật định.

Thứ tư, hình phạt tù có thời hạn

Hình phạt tù có thời hạn là hình phạt nặng nhất trong hệ thống hình phạt áp dụng cho người chưa thành niên phạm tội. Hình phạt này tước tự do, cách ly người phạm tội khỏi xã hội trong một thời gian nhất định và được áp dụng khi các biện pháp giáo dục và hình phạt khác không đạt hiệu quả. Tù có thời hạn là giam người bị kết án ở các trại giam, tức là cách ly người đó ra khỏi môi trường, đời sống xã hội bình thường để giáo dục và cải tạo họ. Sự hạn chế tự do của người bị kết án tù có thời hạn là nội dung pháp lý chủ yếu của loại hình phạt này. Để thể hiện chính sách nhân văn, tiến bộ, Luật quy định giảm mức phạt tù tối đa đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội từ 12 năm xuống 09 năm tù, đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi từ 18 năm xuống 15 năm tù, trừ trường hợp phạm 05 loại tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe và ma túy thì mức hình phạt theo quy định của pháp luật hiện hành: (1) Tội "Giết người"; (2) Tội Hiếp dâm"; (3) Tội "Hiếp dâm người dưới 16 tuổi"; (4) Tội "Cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi"; (5) Tội "Sản xuất trái phép chất ma túy".

Quy định này nhằm thể chế hóa yêu cầu của Đảng về “coi trọng việc hoàn thiện chính sách hình sự... đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong xử lý người phạm tội” và phù hợp với xu hướng chung của các nước trên thế giới. Đồng thời vừa bảo đảm mức hình phạt và tổng hợp hình phạt phù hợp với người chưa thành niên, vừa bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật và an toàn cho cộng đồng. Đây là điểm tiến bộ trong việc quy định so với Bộ luật Hình sự năm 2015 về hình phạt này.

Qua việc phân tích lý luận về hình phạt và áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội theo quy định của Luật Tư pháp người chưa thành niên phạm tội thấy rằng, việc nghiên cứu, soạn thảo và thông qua văn bản pháp luật nêu trên là vô cùng cần thiết, phù hợp với thực tiễn công tác giải quyết vụ án hình sự hiện nay. Tuy nhiên, để việc áp dụng hình phạt với người chưa thành niên phạm tội được cụ thể, rõ ràng, góp phần bảo vệ quyền và lợi ích cho đối tượng này, tác giả xin nêu ra một số kiến nghị sau đây:

Thứ nhất, Luật Tư pháp người chưa thành niên năm 2024 chưa quy định cụ thể về mức phạt tiền tối thiểu đối với người chưa thành niên phạm tội. Điều này đã gây khó khăn trong việc áp dụng pháp luật và tạo ra sự thiếu thống nhất trong thực tiễn. Do đó, tác giả đề xuất bổ sung quy định cụ thể về mức phạt tiền tối thiểu nhằm bảo đảm tính thống nhất và khả thi trong thực tiễn áp dụng pháp luật. Đồng thời cũng bảo đảm tính răn đe và đáp ứng được tính ổn định cao cho quy phạm pháp luật. Bên cạnh đó, Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao cũng cần có quy định cụ thể nhằm hướng dẫn việc xác định tình hình tài sản của người phạm tội và quy định rõ chủ thể có trách nhiệm xác định tình hình tài sản của người phạm tội.

Thứ hai, Luật Tư pháp người chưa thành niên chưa quy định cụ thể về các hoạt động giáo dục, đào tạo và lao động phục vụ cộng đồng trong quá trình chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ đối với người chưa thành niên phạm tội. Điều này đã làm hạn chế hiệu quả giáo dục, rèn luyện và tái hòa nhập cộng đồng của người chưa thành niên phạm tội. Do đó, tác giả kiến nghị bổ sung quy định cụ thể về các hoạt động giáo dục, đào tạo và lao động phục vụ cộng đồng trong quá trình chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ đối với người chưa thành niên phạm tội. Ví dụ trên thực tế như các khóa học đào tạo nghề; tham gia các lớp học nâng cao nhận thức pháp luật, thực hiện lối sống lành mạnh,…

Thứ ba, tăng cường nghiên cứu, soạn thảo, ban hành các văn bản hướng dẫn, thông báo rút kinh nghiệm và tổ chức tập huấn kỹ năng cho các cơ quan tiến hành tố tụng. Việc này giúp bảo đảm tính thống nhất và hiệu quả trong áp dụng hình phạt.

Thứ tư, tăng cường công tác tuyển dụng và đào tạo, bồi dưỡng, khuyến khích nghiên cứu, tham gia hội thảo chuyên đề, rèn luyện đạo đức, xử lý vi phạm đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức.

[1] Đại từ điển tiếng Việt (1998), Nxb. Văn hóa - Thông tin, Hà Nội, tr. 808.

[2] Trịnh Tiến Việt (2022), “Trách nhiệm hình sự và hình phạt - Giáo trình sau đại học”, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội.

[3] Đinh Văn Quế, Bình luận Bộ luật Hình sự năm 2015, Phần thứ nhất - Những quy định chung, NXB Thông tin và Truyền thông, Hà Nội, 2017, tr.164.

[4] Bộ luật Dân sự (2015), Nxb Lao động, Hà Nội, Điều 21.

ThS. NGUYỄN ĐỨC SƠN

Khoa Luật, Học viện Cảnh sát nhân dân

 ThS. NGUYỄN NGỌC TÚ

Phòng Bảo đảm chất lượng đào tạo, Học viện Cảnh sát nhân dân

 

Các tin khác