Đặt vấn đề
“Tâu Bệ hạ, số đông các công chức được trả lương rất thấp… Kết quả những người có kỹ năng đều không gia nhập đội ngũ công chức. Vì vậy, chính phủ của Bệ hạ buộc phải tuyển mộ những công chức kém mà mục tiêu duy nhất của họ là cải thiện tình hình tài chính yếu kém của bản thân… Cần có những người thông minh chăm chỉ, có năng lực và động cơ cá nhân trở thành những nguyên tắc thống trị trong hoạt động trong vương quốc của Ngài. Bệ hạ có đặc quyền tối cao để vận dụng nguyên tắc cần thiết về sự chịu trách nhiệm, mà nếu không có nó thì mọi sự tiến bộ đều sẽ bị trì hoãn, và những công việc tất yếu của Ngài sẽ không thể thực hiện được” (Trích Chúc thư của Tể tướng Ali Pasha gửi Vua Thổ Nhĩ Kỳ, 1871).
Trong lịch sử phát triển của nhân loại, càng ngày bộ máy hành chính càng đóng một vị trí quan trọng. Lời cảnh báo của Tể tướng Pasha gửi nhà vua Thổ Nhĩ Kỳ năm 1871 đã nói lên điều đó. Nhưng rất tiếc rằng Nhà vua Thổ là Abdul Aziiz của Đế chế Ottoman đã không nghe, khoảng 30 năm sau đó đế chế này bị lật đổ, mà nguyên nhân chủ yếu là sự suy thoái kéo dài của bộ máy hành chính đem lại.
Bộ máy hành chính bao gồm các công chức, có nhiệm vụ trực tiếp thực thi các chính sách của nhà nước. Kết quả hoạt động của nhà nước nói chung ngày càng phụ thuộc một cách trực tiếp vào hoạt động của bộ máy hành chính. Chính phủ dân chủ hiện nay có một bộ máy công chức rất đồ sộ (bộ máy quan liêu - thư lại) nhiều hơn bất kỳ của một chế độ quân chủ trong quá khứ. Lý do căn bản của vấn đề là ở chỗ, càng ngày nhà nước càng phải mở rộng phạm vi các công việc cần phải đảm nhiệm của mình. Hệ thống chính trị của Mỹ chẳng hạn, bao gồm 3 triệu nhân viên trong Chính phủ Liên bang và gần 14 triệu trong 80.000 chính phủ địa phương. Đại đa số nhân viên này không do dân chúng Mỹ bầu ra. Kết quả là phần lớn các quyết định hàng ngày đều do bộ máy hành chính quyết định một cách thiếu dân chủ (1).
Chính vì tầm quan trọng như vậy, nên trong suốt thế kỷ XIX, hầu hết các nước phát triển đều tiến hành hiện đại hóa đội ngũ công chức của họ. Sự thành công của nước Anh và giúp họ trở thành nước phát triển hàng đầu về mọi mặt trong đó có sự trợ giúp cho họ khống chế thương mại quốc tế là kết quả của công cuộc cải cách đội ngũ công chức dựa trên sự nuôi dưỡng chu đáo và tuyển lựa một cách khắt khe. Vào cuối thế kỷ XIX, nước Anh đã thiết lập được những cơ sở của chính quyền hiện đại và đã chính thức hóa những giá trị về sự trung thực, về tính tiết kiệm và trung lập về chính trị cho đội ngũ công chức (2).

Ảnh minh hoạ.
Nếu như sự phân chia giữa chính trị và hành chính của các nước phát triển là rõ ràng, thì ở các nước chậm phát triển là rất mờ nhạt, thậm chí còn là không có. Tính chuyên nghiệp của cả hai loại này không rõ ràng. Trong khi đó ở các nước phương Tây, tính chuyên nghiệp của cả hai loại này rất cao. Làm gì thì cũng vậy thôi, không mấy ai có khả năng làm được tất cả mọi việc, vì mỗi một loại việc đều ở mức độ chuyên sâu nhất định. Chính khách thì không chú trọng vào công việc lập ra những chủ trương chính sách, can thiệp quá sâu vào nhiệm vụ hành chính của công chức; còn công chức thì lại không những không tinh thông nghiệp vụ, mà lại còn không cần mẫn tận tụy và có trách nhiệm trong công vụ của mình, thậm chí lại hay suy nghĩ đẻ ra chính sách thay cho thủ trưởng.
Đội ngũ công chức Việt Nam hiện nay
Hoạt động của công chức có liên quan nhiều nhất đến quyền lợi và nghĩa vụ của công dân. Vì vậy, bộ máy nhà nước hiện nay có thể được gọi là chính thể của bộ máy thư lại/ công chức. Chuyển từ một nền kinh tế tập trung kế hoạch hóa sang một nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, ý nghĩa và vai trò của bộ máy thư lại càng nặng nề hơn nhiều nước khác đã và đang ở trong nền kinh tế thị trường. Mặc dù chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam đang tiến hành công cuộc cải tổ đổi mới, với chủ trương rất đúng đắn chuyển sang nền kinh tế thị trường, tăng cường quyền chủ động và tự do kinh doanh cho các chủ thể/tư nhân, nhưng bộ máy hành chính vẫn chưa kịp thời đáp ứng được chủ trương, vẫn điều hành tổ chức theo cơ chế cũ: cấp - phát, xin - cho và cấm đoán hoặc cấp phép như giấy phép, hạn ngạch... theo kiểu chèo thuyền, mà không phải là cầm lái. Đây cũng là nguyên nhân gây tình trạng tham nhũng nặng nề hiện nay ở Việt Nam.
Trong một xã hội dân chủ thực sự, nơi phổ biến của chế độ pháp quyền, tinh thần chịu trách nhiệm, cạnh tranh lành mạnh minh bạch là nguyên tắc căn bản chỉ đạo việc quản lý sự vụ công. Nói Chính phủ phải chịu trách nhiệm trước Quốc hội không chỉ giản đơn ở chỗ các bộ trưởng, cùng Thủ tướng Chính phủ phải chịu trách nhiệm những hành vi của mình, mà theo lý thuyết dân chủ đại nghị, các vị nói trên còn phải chịu trách nhiệm cả hậu quả của các công chức dưới quyền (trách nhiệm người đứng đầu). Nhiều khi công chức làm nổi danh các chính trị gia, nhưng cũng không phải ít khi công chức làm hư chính sách. Hãy xem nguyên Thủ tướng Phan Văn Khải trong lần gặp các doanh nghiệp tháng 10 năm 2004 đã tâm sự trước các doanh nghiệp không khác nào nội dung lo lắng của Tể tướng nước Thổ Nhĩ Kỳ gửi nhà Vua cách đây khoảng gần 200 năm về trước:
“Điều tôi canh cánh trong lòng là bộ máy hư hỏng”
... Bây giờ, các chính sách đã có nhiều tiến bộ nhưng bên dưới vẫn còn nhiều tiêu cực. Ví dụ như chính sách thuế đúng nhưng người hành thu không đúng, hành hạ người ta thì chính sách đó cũng mất tác dụng... Hiện nay, lãnh đạo nhiều tỉnh, thành phố cũng đã biết chăm lo cho doanh nghiệp, nhưng các cán bộ, công chức không làm đúng các quy định của thành phố, tỉnh, của Chính phủ, nhũng nhiễu, tiêu cực còn rất nặng nề. Đó là vấn đề lớn... Đại diện Phòng Thương mại Mỹ nói tham nhũng ở nước ta tràn lan, làm vô hiệu hóa bộ máy nhà nước, có pháp quyền nhưng hóa ra là lại vô pháp quyền. Chúng ta nghe thì có thể cảm thấy khó chịu nhưng đó là thực tế và chúng ta phải thấy đó là những điều rất đau lòng. Không biết các đồng chí nghĩ sao? Nhưng tôi thấy đó là sự thật... Ta cứ nói là lo cho dân, nhưng đâu cũng có tiêu cực, thì người ta đâu có tin mình. Trong nhiều năm làm Thủ tướng, tôi canh cánh một điều trong lòng, và chắc là cả đến lúc nghỉ hưu, là bộ máy chúng ta hư hỏng, làm sao đẩy lùi được... Từ nay đến đầu năm 2005, tôi sẽ cho thành lập các tổ công tác để kiểm tra, rà soát hết lại các thủ tục, những gì khó khăn vướng mắc cho các doanh nghiệp để xem thế nào... Mọi việc nếu đều được công khai, minh bạch hóa thì làm sao nền kinh tế không lành mạnh? Chỗ nào sai mà không sửa thì đó là nguy cơ cho đất nước (3).
Cũng như ngân hàng vậy thôi, nơi cất giữ tiền chính là nơi bọn cướp ngân hàng thực hiện tội phạm, thì những nơi tiến hành hoạch định các dự án đầu tư cũng chính là nơi thu hút các hành vi trục lợi của các doanh nghiệp, quan chức và các nhóm lợi ích khác. Các doanh nghiệp, các quan chức và các nhóm lợi ích khác có động cơ thao túng việc thiết kế hoặc thực hiện các chính sách về môi trường đầu tư để mưu cầu lợi ích cá nhân. Tham nhũng và tước đoạt trắng trợn là những thí dụ rõ rệt nhất, nhưng hành vi trục lợi cũng có thể bao hàm những hình thức tế nhị hơn, mà không phải vi phạm pháp luật. Thao túng hay chủ nghĩa thân quen cũng có thể làm tổn hại việc tạo dựng ra một môi trường đầu tư lành mạnh(4).
Tham nhũng tràn lan ở mọi cấp và nhất là ở cấp thấp đang như là một loại thuế đánh vào các hoạt động kinh doanh. Nếu ở cấp dưới, các chuyên gia từ các cán bộ công chức của chính bản thân nhà nước bao giờ cũng mong dựng lên hoặc duy trì những thủ tục quan liêu, rườm rà để có cơ hội hạch sách, vòi vĩnh doanh nghiệp. Trong khi đó, tham nhũng ở cấp cao không lộ liễu, trắng trợn nhưng nó bóp méo quy trình hoạch định chính sách và làm xói mòn lòng tin của nhân dân đối với công quyền. Những kẻ tham nhũng đó coi các cơ quan nhà nước như là một thứ tài sản để tạo ra nguồn thu nhanh chóng. Tham nhũng không chỉ bòn rút nguồn lực từ công quỹ mà còn “trấn lột” cả thặng dư của nền kinh tế. Hậu quả là nó tước đoạt một phần đáng kể thành quả tăng trưởng kinh tế đầy mồ hôi, nước mắt của biết bao người lao động.
Đội ngũ công chức thời 4.0
Phân tách căn bệnh nan y toàn cầu này, Báo cáo phát triển thế giới 2005 của Ngân hàng Thế giới chỉ ra rằng, tham nhũng là sự kết hợp ba yếu tố cơ bản: quyền lực độc quyền, quyền hạn tùy tiện và mức độ trách nhiệm không thỏa đáng khi thực hiện quyền hạn. Họ khuyến cáo chiến lược chống tham nhũng phải nhắm vào cả ba điểm trên, tất nhiên có thể bằng nhiều cách. Hạn chế tối đa sự can thiệp của bộ máy hành chính vào hoạt động kinh doanh chỉ là một cách. Nhiều doanh nghiệp khẳng định đưa hối lộ sẽ nhiều hơn khi không thể tránh được những cuộc tiếp xúc với các quan chức. Khổ nỗi điều đó càng đáng lo hơn khi mà “bộ máy của chúng ta hư hỏng” đang là nỗi lo canh cánh của người đứng đầu Chính phủ.
Về nguyên tắc, các thể chế có mục tiêu hạn chế khả năng hoạt động tùy tiện của bộ máy nhà nước sẽ góp phần cải thiện năng lực nhà nước trong việc cung cấp các thể chế hỗ trợ cho nền kinh tế thị trường là một trong những nhiệm vụ cấp bách hiện nay của các nước đang phát triển. Nhưng cũng có một thực tế rất phổ biến của không ít các nước nghèo hiện nay là khả năng cung cấp các thể chế hỗ trợ nền kinh tế thị trường bị cản trở do không có những biện pháp kiềm chế có hiệu quả đối với các công chức và viên chức nhà nước. Khi năng lực của nhà nước yếu kém, các quy định của pháp luật đơn giản, không có khả năng hạn chế sự tuỳ tiện của các quan chức nhà nước, thì bao giờ cũng là cơ sở sinh ra các hành vi tham nhũng của quan chức.
Bất kỳ những cải cách nào làm tăng sự cạnh tranh của nền kinh tế cũng sẽ là những phương thuốc tốt làm giảm hành vi tham nhũng của công chức. Những chính sách làm giảm bớt sự kiểm soát đối với ngoại thương, tháo gỡ những rào chắn đối với các doanh nghiệp tư nhân, tư nhân hóa các doanh nghiệp nhà nước theo cách bảo đảm cạnh tranh đều là những biện pháp tốt hỗ trợ cho cuộc chiến chống tham nhũng. Nếu nhà nước không còn quyền hạn chế xuất nhập khẩu, hay cấp các loại giấy phép, thì công chức của nhà nước cũng không thể có cơ hội cho việc tham nhũng thông qua những hành vi nhận hối lộ của mình. Nếu một chương trình trợ cấp bị xóa bỏ, thì những tội hối lộ của nó cũng tự bị biến mất theo. Tăng cường sự công khai và minh bạch, cùng với việc hạn chế bớt sự tiếp xúc trực tiếp công chức với các chủ thể cần phải giải quyết các công việc cũng là những phương pháp hỗ trợ cuộc chiến chống tham nhũng. Những tổ chức theo dõi việc thi hành pháp luật phải tập trung không những vào những người nhận hối lộ, mà còn vào cả những người đưa hối lộ. Phải có cả hai người, cả anh, cả ả cùng nhảy một điệu tăng gô, và hình phạt cũng phải cùng nghiêm khắc đối với cả hai bên...(5), thì cuộc chiến chống tham nhũng mới có cơ hội cho sự giảm thiểu.
Vì vậy, một trong những trọng tâm tiếp theo của việc chỉ ra trách nhiệm lớn lao của các vị bộ trưởng người đứng đầu một bộ, hoặc một ban ngành ở Trung ương, trong việc vạch ra những chính sách, đường lối cho sự phát triển của ngành hoặc lĩnh vực mà mình phụ trách là việc nâng cao trách nhiệm của đội ngũ công chức của bộ. Chính đây là đội ngũ đông đảo có trách nhiệm lớn cho việc giúp bộ trưởng nghĩ ra những chính sách tốt, đồng thời cũng chính đây là đội ngũ cơ bản làm cho chính sách tốt không được thi hành, hoặc gợi ý cho bộ trưởng đẻ ra những chính sách không có lợi cho quốc kế dân sinh, mà chỉ có lợi cho công chức của bộ nói riêng.
Xây dựng một bộ máy công chức chuyên nghiệp dựa vào các quy tắc phải tốn rất nhiều thời gian và sức lực. Trong khi đó có thể thi hành một số biện pháp khác một cách nhanh chóng hơn, và một số trong đó có thể sớm đưa lại những điều có ích. Các cơ chế hoạt động tốt về xây dựng chính sách sẽ làm rõ những tổn phí của những chính sách đang cạnh tranh nhau và khuyến khích các cuộc tranh luận và tham khảo ý kiến của các giới quan tâm. Sử dụng thị trường cung cấp những dịch vụ có cạnh tranh, giảm bớt các dịch vụ Chính phủ hiện đang nắm độc quyền để có thể giảm bớt chi phí và cải tiến chất lượng dịch vụ. Cũng như vậy, ký hợp đồng về các hoạt động có thể xác định rõ ràng thông qua đấu thầu có cạnh tranh giảm bớt gánh nặng đối với khả năng quá tải của nhà nước và xây dựng mối quan hệ hợp tác với các thị trường và các tổ chức phi chính phủ để tăng hiệu quả phục vụ. Không nên chỉ dựa vào những sự kiểm soát nội bộ, mà cần phải tạo thêm những sự kiểm tra hoạt động cung ứng dịch vụ công từ các công ty và nhân dân khi họ sử dụng dịch vụ công cộng, có thể làm được rất nhiều khi tạo ra được những áp lực bên ngoài để có hoạt động cung ứng dịch vụ công tốt hơn.
Các công chức thường được làm việc cho các cơ quan bộ và ngang bộ dưới sự lãnh đạo của bộ trưởng. Chính khách - bộ trưởng chỉ là chức vụ “tạm thời” thường thay đổi theo nhiệm kỳ của nội các. Vì vậy các bộ trưởng phải dựa vào ý kiến và trợ lực của các công chức - những người hoạt động thường xuyên trong bộ, đặc biệt là các công chức cao cấp để điều hành bộ và hoạch định chính sách. Người công chức cao cấp phải là người am tường các cách thức điều hành của tất cả guồng máy của bộ, phải nắm vững các trở ngại, mà bộ trưởng cần phải đối phó, có thể phải giải trình trước Quốc hội, báo chí, nhóm áp lực và trước công chúng. Vậy công chức cần có những đặc điểm gì?
Công chức thời hiện đại 4.0 phải được xây dựng trên nền tảng của bộ máy công chức được Weber gọi là loại công chức máy móc, lẽ đương nhiên của máy móc thì phải hơn thủ công, bằng tay. Đó phải là bộ máy công chức “thư lại” (bureacracy) lành nghề và có chuyên môn theo cách đề nghị của nhà xã hội học vĩ đại những năm cuối cùng của thể kỷ XIX và đầu thế kỷ XX - M. Weber. Những đặc điểm đó là:
Nhóm đặc điểm thứ nhất, gồm các nguyên tắc pháp lý và quy phạm pháp luật. Những đặc điểm này biểu hiện ở việc các hoạt động thường xuyên của tổ chức hành chính được xác định và phân bổ với tư cách là các nghĩa vụ và trách nhiệm chính thức quyền uy chỉ huy được phân bổ theo một trật tự ổn định với các quy tắc thực thi liên quan đến biện pháp có tính cưỡng chế, chỉ có cá nhân nào có đủ trình độ mới được thuê tuyển để thực thi các nghĩa vụ và quyền hạn nhất định trong tổ chức hành chính.
Nhóm đặc điểm thứ hai, các nguyên tắc tổ chức thứ bậc văn phòng, thứ bậc quyền lực. Tổ chức hành chính là một hệ thống trật tự trên dưới, cấp dưới phải phục tùng, chịu sự chỉ đạo và giám sát của cấp trên. Đặc điểm này quyết định quyền lực của mỗi cá nhân trong tổ chức hành chính. Các cá nhân không có quyền lực riêng mà chỉ là người được tổ chức ủy quyền để thực thi quyền lực của tổ chức. Đặc điểm này có nghĩa là cá nhân không thể tùy tiện sử dụng quyền lực nhà nước.
Nhóm đặc điểm thứ ba, sự quản lý trong các cơ quan hành chính dựa trên văn bản, hồ sơ. Mọi quy tắc, mọi vị trí, vai trò chức năng, nhiệm vụ đều được xác định rõ ràng và được thể chế hóa, lưu trữ bằng hệ thống văn bản, hồ sơ.
Nhóm đặc điểm thứ tư là tính chuyên môn nghiệp vụ. Tổ chức hành chính được hoàn thiện bao gồm những chuyên gia, chuyên viên được đào tạo một cách hệ thống, bài bản và chính quy, mà nguồn cung cấp là các cơ sở giáo dục - đào tạo.
Nhóm đặc điểm thứ năm là tính mẫn cán và sự trung thành. Mỗi cá nhân trong bộ máy hành chính phải toàn tâm, toàn ý với công việc. Đặc điểm này có yêu cầu tách quan hệ công việc hành chính ra khỏi quan hệ của cá nhân, tách chức năng ra khỏi tình cảm, tách việc công ra khỏi việc tư. Đặc điểm này được hình thành trong cả quá trình công tác của công chức, họ phải có sự đầu tư nhất định về mặt thời gian và các nguồn lực khác như thái độ, thói quen.
Nhóm đặc điểm thứ sáu, các tổ chức hành chính luôn tuân theo những nguyên tắc chung, phổ biến và tương đối ổn định có thể nhận biết và áp dụng được. Đặc điểm này thể hiện ở chỗ các quy tắc quản lý hành chính là chung và phổ biến cho phần lớn các trường hợp, cho các đối tượng, mà không áp dụng cho các trường hợp riêng lẻ.
Tuy nhiên, mặt trái của tính hiệu quả là tính máy móc, cứng nhắc. Các đặc điểm của tổ chức kiểu văn phòng rất dễ tạo ra nguy cơ thành quan liêu như vẫn thường gắn với tên gọi “Bureaucracy”.
Nhìn lại lịch sử Nhà nước Việt Nam thời kỳ Pháp thuộc, chúng ta đã có một trong những biểu hiện của yêu cầu bộ máy “thư lại” với câu thành ngữ “Sáng cắp ô đi, tối cắp ô về”. Nhưng nó không được kịp thời phát huy sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Cần phải bình tĩnh suy nghĩ lại ý nghĩa của câu thành ngữ này. Đêm trước của Cách mạng xã hội chủ nghĩa/cách mạng vô sản, theo chúng tôi, nội dung của thuật ngữ này được dùng để lên án chế độ bàn giấy, quan liêu của công chức thời kỳ tư bản chủ nghĩa và của chúng ta là chế độ thực dân nửa phong kiến/chế độ thuộc địa, thể hiện như là một nhu cầu của Cách mạng cần phải thay đổi chế độ chính trị, trong đó có bao hàm cả chế độ hành chính kèm theo của một chế độ chính trị đang lỗi thời.
Tuy nhiên, công cuộc cải cách bộ máy hành chính hiện nay, những tiêu chí của hệ thống công chức theo kiểu “sáng cắp ô đi, tối cắp ô về” lại là rất cần thiết. Nói một cách khác, trong công cuộc cải cách hành chính với việc đòi hỏi phải giải quyết nhanh, chính xác mọi yêu cầu của phát triển kinh tế cũng như của các lĩnh vực khoa học và dịch vụ xã hội khác kèm theo hiện nay, chúng ta đang thiếu một đội ngũ công chức theo kiểu “sáng cắp ô đi, tối cắp ô về”, mà nội hàm của thành ngữ này là những đòi hỏi chuyên môn nghiệp vụ, sự vô tư đến mức không phụ thuộc vào điều kiện thời tiết của tự nhiên, lẫn của cả xã hội. Việc phục hồi nội hàm của thành ngữ này ít nhất giúp chúng ta có được một đội ngũ công chức có những đáp ứng được đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, đội ngũ công chức là những người có chuyên môn nghiệp vụ, một đặc điểm rất cần phải có của hàng ngũ công chức hiện nay của nền kinh tế thị trường. Thứ hai, các công việc về sự vụ hành chính được thực hiện một các không ngừng, không gián đoạn.
Thứ ba, sự không phụ thuộc vào các điều kiện kể cả tự nhiên lẫn xã hội. Công chức phải vô tư chỉ dựa vào pháp luật để thực hiện các quyết định hành chính.
Thứ tư, các công chức phải làm các công việc gì đều được xác định rõ ràng bởi những tiêu chuẩn của pháp luật không mang tính chất cá nhân.
Thứ năm, các quan chức và viên chức hành chính không có nguồn riêng để hoàn thành chức trách của mình. Giữa công vụ và tư vụ, giữa thu nhập từ cơ quan nhà nước và thu nhập của cá nhân được phân biệt một cách chặt chẽ, không có sự nhập nhằng giữa công và tư.
Thứ sáu, công việc sự vụ hành chính dựa trên cơ sở những công văn được ghi chép lại, mà không bằng những chỉ thị của cấp trên, loại trừ những chỉ thị bằng miệng.
Những yêu cầu của chế độ công chức “sáng cắp ô đi, tối cắp ô về” nghĩ rằng rất trùng hợp yêu cầu của bộ máy hành chính quan liêu/ bộ máy hành chính thư lại của M. Weber. Theo quan niệm của ông thì, xét về mặt kỹ thuật chế độ hành chính quan liêu ưu việt hơn các hình thức quản lý hành chính khác, giống như sản xuất bằng máy móc thì năng suất hơn bằng lao động chân tay, hay thủ công nghiệp (6).
Chúng tôi cho rằng, đội ngũ công chức hiện nay cần được xây dựng trên đội ngũ công chức của chế độ quan liêu, cộng với việc áp dụng khoa học công nghệ internet vào các hoạt động của công vụ. Nếu như đội ngũ công chức của hệ thống quan liêu của M. Weber là máy móc cơ khí đã nhanh hơn, chính xác hơn, đỡ tùy tiện hơn, thì việc áp dụng công nghệ mạng 4.0 lại càng nhanh hơn và càng đỡ tùy tiện hơn, chính xác hơn.
Trên cơ sở của công chức thư lại máy móc, sáng cắp ô đi, chiều cắp ô về mà nâng cấp bằng việc áp dụng các khoa học công nghệ, mạng, internet sẽ thành đội ngũ của công chức thời Việt Nam phát triển bền vững.
Kết luận
Trách nhiệm lớn lao và không kém phần quan trọng của các vị bộ trưởng - người đứng đầu một bộ, hoặc một ban ngành ở trung ương, trong việc vạch ra những chính sách, đường lối cho sự phát triển của ngành hoặc lĩnh vực mà mình phụ trách là nâng cao trách nhiệm của đội ngũ công chức của bộ máy hành pháp. Chính đây là đội ngũ đông đảo có trách nhiệm lớn giúp Thủ tướng và các thành viên Chính phủ nghĩ ra những chính sách tốt, đồng thời cũng chính đây là đội ngũ cơ bản làm cho chính sách tốt không được thi hành, hoặc gợi ý cho Thủ tướng và các bộ trưởng thành viên của Chính phủ ban hành ra những chính sách không có lợi cho quốc kế dân sinh. Nói một cách vắn tắt, không có đội ngũ công chức lành nghề thì không thể có được một quốc gia quản trị tốt. Đó là đội ngũ công chức ứng dụng khoa học công nghệ thời đại 4.0 vào việc giải quyết các nhiệm vụ trong hoạt động công vụ của mình. Đội ngũ này phải được xây dựng trên cơ sở của đội ngũ quan liêu Bureaucracy, sáng cắp ô đi, tối cắp ô về.
(1) Xem, John J. Macionis, Xã hội học, Nxb Thống kê, 2004, tr 566.
(2) Ngân hàng thế giới, Nhà nước trong một thế giới đang chuyển đổi, Nxb Chính trị quốc gia, 1998, tr 104.
(3) Báo Thanh niên, Thứ sáu, ngày 15/10/2004.
(4) Xem, Ngân hàng thế giới, Báo cáo phát triển thế giới 2005/Môi trường đầu tư tốt hơn cho mọi người, Nxb Văn hóa Thông tin, 2004, tr 54.
(5) Ngân hàng Thế giới, sđd, tr 134-135.
(6) M. Weber, Chính t6rị- nghề nghiệp và sứ mệnh, Nxb Đà Nẵng, 2018, tr 162.
Tài liệu tham khảo
1. Chúc thư của Tể tướng Ali Pasha gửi Vua Thổ Nhĩ Kỳ, 1871.
2. Hà Lâm Hợp, Max Weber, Nxb Thuận Hóa, Trung tâm Văn hóa Đông Tây, 2004.
3. John J. Macionis, Xã hội học, Nxb Thống kê, 2004.
4. F. Fukuyama, Nguồn gốc trật tự chính trị, từ thời tiền sử đến Cách mạng Pháp, Nxb Tri thức. 2020.
5. Ngân hàng Thế giới, Nhà nước trong một thế giới đang chuyển đổi, Nxb Chính trị quốc gia, 1998.
6. Ngân hàng thế giới, Báo cáo phát triển thế giới 2005/Môi trường đầu tư tốt hơn cho mọi người, Nxb Văn hóa Thông tin, 2004.
7. Nguyễn Thị Quế Anh, Vũ Công giao và Nguyễn Hoàng Anh (đồng chủ biên), Các lý thuyết, mô hình cách tiếp cận về quản trị nhà nước và phòng chống tham nhũng, Nxb Hồng Đức, 2018.
8. M. Weber, Chính trị - nghề nghiệp và sứ mệnh, Nxb Đà Nẵng, 2018.
GS.TS NGUYỄN ĐĂNG DUNG
Trường Đại học Tôn Đức Thắng
THS NGUYỄN ĐĂNG DUY
Trường Đại học Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội