/ Nghiên cứu - Trao đổi
/ Khái niệm, đặc điểm và phân biệt tội 'Tham ô tài sản' với một số loại tội phạm khác

Khái niệm, đặc điểm và phân biệt tội 'Tham ô tài sản' với một số loại tội phạm khác

18/12/2025 06:32 |

(LSVN) - Tham nhũng là vấn nạn chung của tất cả các quốc gia, các Nhà nước và thời kỳ lịch sử, kể từ khi chế độ tư hữu xuất hiện và Nhà nước ra đời. Về mặt ngữ nghĩa, theo Từ điển tiếng Việt, tham ô là “Lợi dụng quyền hạn hoặc chức trách để ăn cắp của công”. Theo cách hiểu này, có thể hiểu tham ô là hành vi của con người có quyền hạn hoặc chức trách đã lợi dụng quyền hạn hoặc chức trách của mình để chiếm đoạt của công. Hiểu theo nghĩa rộng thì hành vi tham ô chính là trộm cướp. Hiểu theo nghĩa này, chủ thể của hành vi tham ô không chỉ là cán bộ, công chức - những người nắm chức vụ, quyền hạn nhất định trong bộ máy nhà nước mà ngay cả những người dân bình thường, nếu “ăn cắp của công, khai gian, lậu thuế” cũng có thể là chủ thể của hành vi tham ô.

Khái niệm tham ô tài sản

Theo Tổ chức Minh bạch quốc tế, thì tham ô là “hành vi của người giữ chức vụ trong cơ quan, tổ chức, hoặc công ty, đã chiếm đoạt, sử dụng hoặc buôn bán một cách trái phép số tiền và tài sản mà họ được giao quản lý để phục vụ cho những mục đích làm giàu cá nhân hoặc các hoạt động khác”.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.

Theo quy định tại Điều 17 Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng thì tham ô được hiểu là “… Hành vi của công chức tham ô, biển thủ hoặc chiếm đoạt dưới các hình thức khác cho bản thân hoặc cho người hay tổ chức khác công quỹ hoặc tư quỹ hoặc chứng khoán hay bất cứ thứ gì có giá trị mà công chức này được giao quản lý do địa vị của mình”.

Quan điểm này nêu rất khái quát về tham ô nhưng chỉ nói tới hành vi chiếm đoạt tài sản của công chức mà bỏ qua những hành vi chiếm đoạt tài sản của các đối tượng không phải là công chức. Như vậy, có thể thấy rằng mặc dù còn tồn tại nhiều cách hiểu khác nhau về tội "Tham ô tài sản" nhưng nhìn chung thì có hai quan niệm khá phổ biến:

Một là, xem tham ô bao gồm mọi hành vi chiếm đoạt tài sản công của bất kỳ người nào có chức vụ, quyền hạn hoặc được giao nhiệm vụ, quyền hạn để chiếm dụng tài sản. Chủ thể của hành vi tham ô có thể là cán bộ, công chức nhà nước, viên chức hoặc những người làm việc trong các tổ chức chính trị, tổ chức xã hội và tài sản bị chiếm đoạt của hành vi tham ô là tài sản của nhà nước.

Hai là, xem tham ô là hành vi lợi dụng quyền để chiếm đoạt tài sản mà mình trách nhiệm quản lý chuyển thành của riêng, với động cơ xuất phát từ lợi ích cá nhân hoặc nhóm cá nhân có quan hệ lợi ích với nhau. Hành vi tham ô không chỉ ở việc chiếm đoạt tài sản của nhà nước mà của các tổ chức chính trị -xã hội và doanh nghiệp bao hàm cả lĩnh vực tư. Và như đã đề cập ở trên, đây là quan điểm về tội "Tham ô tài sản" ở nhiều nước trên thế giới.

Qua nghiên cứu các quan điểm trên cho thấy, hiện nay vẫn chưa có quan niệm thống nhất về tham ô và vẫn còn nhiều tranh cãi xoay quanh hai dấu hiệu cơ bản của hành vi này là:

Thứ nhất, tài sản tham ô là của Nhà nước hay của cơ quan tổ chức (bao gồm cả lĩnh vực công và lĩnh vực tư).

Thứ hai, chủ thể tham ô tài sản người có chức vụ quyền hạn để thi hành công vụ - là cán bộ, công chức, viên chức hay chỉ là người có trách nhiệm quản lý trong cơ quan tổ chức.

Tác giả cho rằng tham ô tài sản là hành vi chiếm đoạt tài sản của cơ quan, tổ chức thành của riêng cho bản thân hay người khác mà bản thân chủ thể có trách nhiệm quản lý, xâm hại vào hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức đồng thời xâm hại vào quyền sở hữu tài sản của cơ quan, tổ chức. Tuy nhiên, xét ở góc độ tội phạm học, tình hình tội phạm là hiện tượng mang tính lịch sử và tính pháp lý hình sự, thực tiễn cho thấy cùng với sự thay đổi của các thành phần kinh tế đã có nhiều trường hợp người có trách nhiệm quản lý tài sản lợi dụng điều này để chiếm đoạt tài sản của cơ quan, tổ chức thuộc các thành phần kinh tế quốc doanh (công), doanh nghiệp cổ phần hóa (công - tư kết hợp) và doanh nghiệp dân doanh, tổ chức xã hội, xã hội nghề nghiệp, tổ chức phi Chính phủ. Dù chủ sở hữu tài sản thuộc thành phần kinh tế nào, thuộc thẩm quyền quản lý của Nhà nước hay không thì các chủ sở hữu đều phải được bình đẳng trước pháp luật mà cụ thể ở đây là pháp luật hình sự. Bản chất của tham ô vẫn là dùng chức vụ quyền hạn tổ chức để chuyển tài sản đó thành của riêng. Xuất phát từ thực tiễn xử lý tội phạm ở nước ta có nhiều vướng mắc do những quy định trong luật Hình sự về tội "Tham ô tài sản" nói riêng và tội phạm về chức vụ nói chung chưa giải quyết được các yêu cầu thực tiễn đặt ra; vì vậy Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017, 2025) (viết tắt BLHS) có sự thay đổi đáng kể trong tư duy lập pháp khi tội "Tham ô tài sản" vẫn nhằm trong nhóm tội phạm về chức vụ nhưng khái niệm các tội phạm về chức vụ đã có sự mở rộng: “Là những hành vi xâm phạm hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức do người có chức vụ thực hiện trong khi thực hiện công vụ, nhiệm vụ và người có chức vụ là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do hợp đồng hoặc do một hình thức khác có hưởng lương hoặc không hưởng lương, được giao thực hiện một nhiệm vụ nhất định và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện công vụ, nhiệm vụ”.

Từ những đánh giá và nhận định nêu trên, tác giả xin đưa ra một khái niệm chung nhất về tội "Tham ô tài sản" như sau: “tội "Tham ô tài sản" là hành vi nguy hiểm cho xã hội, trái pháp luật hình sự do người đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, có năng lực trách nhiệm hình sự; có trách nhiệm quản lý tài sản thực hiện bằng việc lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình chiếm đoạt tài sản mà mình có trách nhiệm quản lý trong cả lĩnh vực tư và công được quy định trong Bộ luật Hình sự”.

Đặc điểm của tội "Tham ô tài sản"

Từ việc nghiên cứu khái niệm tội "Tham ô tài sản" như đã phân tích ở trên, có thể rút ra một số đặc điểm của loại tội này như sau:

Thứ nhất, tội "Tham ô tài sản" là hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm phạm hoạt động đúng đắn và sở hữu của cơ quan, tổ chức trong hoặc ngoài Nhà nước. Hành vi nguy hiểm cho xã hội được hiểu theo nghĩa chung nhất là hành vi gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại cho quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ, hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức là những hoạt động theo những chức năng, nhiệm vụ đó pháp luật hoặc điều lệ quy định, những hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức bị xâm phạm bởi tội "Tham ô tài sản" là những hoạt động theo quy định của pháp luật hoặc điều lệ buộc phải làm mà không làm, cấm không được làm thì lại làm, khi bị xâm phạm thì chức năng, nhiệm vụ các mục tiêu của cơ quan, tổ chức này sẽ bị ảnh hưởng xấu và không đạt được mục đích tối ưu. tội "Tham ô tài sản" còn xâm phạm đến sở hữu của cơ quan, tổ chức trong hoặc ngoài Nhà nước, nghĩa là xâm phạm đến các quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản của cơ quan, tổ chức trong hoặc ngoài Nhà nước, người phạm tội thông qua hành vi chiếm đoạt tài sản do mình quản lý, chuyển dịch bất hợp pháp tài sản thuộc sở hữu của cơ quan, tổ chức thành tài sản của riêng mình hoặc cho người thân thích làm chủ sở hữu mất quyền sở hữu về tài sản.

Thứ hai, tội "Tham ô tài sản" được thực hiện do người có chức vụ, quyền hạn trong quản lý tài sản. Chủ thể của tội phạm này là con người cụ thể có đủ năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đến mức bị coi là tội phạm, đủ năng lực trách nhiệm hình sự ở đây thể hiện là con người đó phải có khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi, đạt đủ độ tuổi theo luật định, họ phải có chức vụ, quyền hạn nhất định trong việc quản lý tài sản của cơ quan, tổ chức, nếu là người không có chức vụ, quyền hạn thì chỉ có thể họ là người đồng phạm tham ô với vai trò người tổ chức, xúi giục hoặc giúp sức,… Người có chức vụ, quyền hạn của tội "Tham ô tài sản" có đặc điểm họ có thể là người thực hiện một trong các chức năng đại diện quyền lực nhà nước, tổ chức để điều hành quản lý, tổ chức sản xuất kinh doanh theo vị trí, công việc được giao. Là người giữ chức vụ, quyền hạn thường xuyên hoặc tạm thời trong cơ quan. tổ chức của nhà nước và ngoài nhà nước những chức vụ, quyền hạn này có thể do được bổ nhiệm hoặc do bầu cử, do hợp đồng hay các hình thức khác như được ủy quyền, được cử làm người đại diện… Có hưởng lương hoặc không hưởng lương hoặc những người có trách nhiệm nhất định theo thẩm quyền chuyên môn mà họ đã được giao đảm nhiệm. Những người nêu trên phải là người có trách nhiệm quản lý tài sản, nếu họ không có trách nhiệm quản lý tài sản thì không thể là chủ thể của tội phạm này. Theo quy định của Điều 352 BLHS để trở thành chủ thể của của tội phạm tham nhũng nói chung và tham ô tài sản nói riêng cần thỏa mãn 02 điều kiện: Thứ nhất, là người có chức vụ, tức được giao thực hiện công vụ (trong khu vực nhà nước) hoặc nhiệm vụ (khu vực ngoài nhà nước); thứ hai, phải là người có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện công vụ, nhiệm vụ được giao. Người phạm tội phải có quyền hạn liên quan đến quyền, lợi ích của tổ chức, cá nhân và quyền hạn đó phát sinh từ công vụ, nhiệm vụ được giao. Trường hợp, người được giao thực hiện nhiệm vụ, nhưng nhiệm vụ đó không làm phát sinh quyền hạn của người được giao thực hiện nhiệm vụ với bất kỳ cơ quan, tổ chức cá nhân khác thì người được giao thực hiện nhiệm vụ đó không phải là người có chức vụ, tức không phải là chủ thể tội tham những, đây là điều kiện cần và đủ để xác định là chủ thể của tội "Tham ô tài sản" và cũng là điều kiện để phân biệt với với tội phạm khác trong BLHS có cùng tính chất chiếm đoạt, người có trách nhiệm quản lý tài sản là người được giao nhiệm vụ trực tiếp quản lý tài sản của cơ quan, tổ chức như kế toán, thủ quỹ, thủ kho, bảo vệ ngoài ra những người như người đứng đầu các cơ quan, tổ chức, giám đốc công ty, chủ tịch hội đồng quản trị các doanh nghiệp họ là người chủ tài khoản, chủ quản lý của cơ quan, tổ chức, họ có quyền quyết định về tài sản của cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp cũng có thể là chủ thể của loại tội phạm này.

Thứ ba, tội "Tham ô tài sản" là tội phạm có tính chất chiếm đoạt nên cũng giống như các tội có tính chất chiếm đoạt khác trong BLHS. tội "Tham ô tài sản" thì người thực hiện hành vi bao giờ cũng là với lỗi cố ý trực tiếp, nghĩa là người đó nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn cho hậu quả xảy ra, cụ thể hơn người phạm tội "Tham ô tài sản" thấy trước hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của cơ quan tổ chức đã giao cho mình quản lý sẽ gây ra thiệt hại cho quan hệ xã hội của cơ quan, tổ chức đó mà pháp luật đã bảo vệ, người phạm tội thấy trước hậu quả đó nhưng vẫn mong muốn cho hậu quả xảy ra.

Thứ tư, trách nhiệm hình sự là hậu quả pháp lý phải gánh chịu do việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội thỏa mãn đầy đủ các dấu hiệu cấu thành một trong các tội phạm, trách nhiệm hình sự đối với tội "Tham ô tài sản" cũng là hậu quả pháp lý phải gánh chịu do việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội thỏa mãn đầy đủ các dấu hiệu cấu thành một trong các tội phạm, được quy định tại Chương XXIII BLHS. Trách nhiệm hình sự chỉ phát sinh khi có hành vi phạm tội, cho nên, trách nhiệm hình sự chỉ được thực hiện trong phạm vi của quan hệ pháp luật hình sự giữa hai bên, một bên là Nhà nước, còn bên kia là người phạm tội với tính chất là hai chủ thể trong quan hệ pháp luật hình sự với các quyền và nghĩa vụ theo luật định. Trách nhiệm hình sự chỉ được áp dụng đối với người đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mà BLHS quy định là tội "Tham ô tài sản" người đó phải đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, có năng lực trách nhiệm hình sự và có lỗi (cố ý hoặc vô ý).

Phân biệt tội "Tham ô tài sản" với một số tội phạm khác

Trong nhóm tội phạm liên quan đến chức vụ, tham ô là loại tội phạm có tỉ lệ phạm tội cao, do đặc trưng về mục tiêu phạm tội cũng như khách thể bị tác động tới. So với một số tội có cấu thành gần giống (tội "Nhận hối lộ", tội "Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản", nhóm tội trộm cắp tài sản, lừa đảo chiếm đoạt tài sản, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản) thì tội "Tham ô tài sản" có những dấu hiệu giống hoặc gần giống cần được phân biệt để có thể hiểu đúng và chính xác từng tội phạm cụ thể, tránh sự nhầm lẫn trong áp dụng pháp luật, đặc biệt là nhằm điều tra, truy tố, xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật tránh oan sai.

Tội "Tham ô tài sản" (Điều 353 BLHS) và tội "Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản" (Điều 355 BLHS)

Hai loại tội phạm này giống nhau về chủ thể (người có chức vụ quyền hạn), do lỗi cố ý trực tiếp, tội cấu thành vật chất và đều xâm hại quan hệ sở hữu [8]. Vì vậy, cần phải phân biệt những đặc trưng cơ bản của 02 tội này để hạn chế những nhầm lẫn trong việc xác định tội danh.

Thứ nhất, về đối tượng tác động của tội phạm: Với tội "Tham ô tài sản" thì tài sản do người phạm tội quản lí một cách hợp pháp (do chức vụ, quyền hạn đem lại), với tội "Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản" không nằm trong sự quản lý của chủ tài sản vì thế người phạm tội phải vượt ra ngoài quyền hạn của mình mới chiếm đoạt được tài sản.

Thứ hai, hành vi đặc trưng của tội phạm: Hành vi của tội "Tham ô tài sản" là người phạm tội sử dụng chức vụ như một phương tiện để biến tài sản của mình được giao quản lý thành tài sản các nhân; sử dụng quyền hạn để thực hiện không đúng chức trách hoặc làm trái chế độ quản lí tài sản; sử dụng quyền hạn quá giới hạn cho phép nhưng có liên quan đến cương vị công tác nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản; đối với tội "Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản" thì người phạm tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn như một phương tiện để làm một việc vượt ra ngoài trách nhiệm được giao nhằm chiếm đoạt tài sản. Lạm dụng chức vụ, quyền hạn uy hiếp tinh thần chủ tài sản buộc họ phải giao tài sản (tương tự hành vi của tội cưỡng đoạt tài sản). Lạm dụng chức vụ, quyền hạn lừa dối người khác nhằm chiếm đoạt tài sản (tương tự hành vi của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản); hoặc lạm dụng tín nhiệm của chủ tài sản dựa vào chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản (tương tự hành vi của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản).

Phân biệt tội "Tham ô tài sản" với một số tội phạm về sở hữu

Điểm chung giữa tội "Tham ô tài sản" và các tội trộm cắp tài sản, lừa đảo chiếm đoạt tài sản là đều tác động vào khách thể chiếm đoạt tài sản, trong đó chủ yếu là tài sản vật chất để thỏa mãn nhu cầu cá nhân và gây tổn hại tới khách thể chịu sự tác động. Tuy nhiên, giữa hai tội danh này vẫn có những điểm khác biệt về chủ thể và khách thể.

Thứ nhất, về chủ thể: Đối với tội "Tham ô tài sản", chủ thể của hành vi này là chủ thể đặc biệt là người có chức vụ, quyền hạn và có trách nhiệm quản lý tài sản bị chiếm đoạt. Ngược lại các tội danh liên quan tới trộm cắp, lừa đảo, lạm dụng tín nhiệm có chủ thể đa dạng, là bất kỳ người nào có năng lực trách nhiệm hình sự và trong đó người phạm tội hoặc là hoàn toàn không liên quan gì đến tài sản và không có chức vụ, quyền hạn và không có trách nhiệm quản lý tài sản và do đó, không có quyền định đoạt, chiếm hữu, sử dụng tài sản bị chiếm đoạt. Ví dụ: Một tên trộm trèo vào nhà hàng xóm để trộm cắp tài sản thì bản thân hắn không liên quan đến quản lý, định đoạt về tài sản trộm cắp và không chức vụ, hay quyền hạn gì liên quan…Vì chủ thể khác nhau nên điều kiện khách quan của các hành vi phạm tội này khác nhau, người tham ô thì sử dụng công cụ để chiếm đoạt tài sản là địa vị, chức vụ và quyền hạn của mình, các hành vi khác thì sử dụng nhiều thủ đoạn khác nhau.

Thứ hai, về khách thể: tội "Tham ô tài sản" ngoài tác động đến quan hệ sở hữu còn tác động tới hoạt động bình thường của cơ quan tổ chức, gây ra những thiệt hại về uy tín chính trị, gây hoang mang dư luận, gây xói mòn lòng tin vào sự minh bạch và hiệu quả quản lý kinh tế của nhà nước,… nhưng trong nhóm tội trộm cắp, lừa đảo thì khách thể thiệt hại về tài sản còn có thể bị thiệt hại về tính mạng, thân thể, vì vậy hậu quả của hai hành vi này khác nhau. Tóm lại, để xác định đặc trưng về tội "Tham ô tài sản" thì việc phân tích dấu hiệu pháp lý của tội danh này cũng cần làm rõ những điểm chung và điểm khác biệt với các tội danh tương tự là cần thiết; nhằm nhận thức đầy đủ về dấu hiệu tội phạm, qua đó giúp các nhà làm luật xây dựng hệ thống luật pháp chặt chẽ, phù hợp, tiến bộ để đấu tranh có hiệu quả với tội phạm hiện nay.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Chủ tịch nước (1946), Sắc lệnh số 233 - SL ngày 27 tháng 11 năm 1946 quy định về tội biển thủ công quỹ, Hà Nội.

2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.

3. Nguyễn Thị Phương Hoa - Phan Anh Tuấn (2017), Bình luận khoa học những điểm mới của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), Nhà xuất bản Hồng Đức, Hà Nội.

4. Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (2020), Nghị quyết hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật Hình sự trong xét xử tội phạm tham nhũng và tội phạm khác về chức vụ, Hà Nội.

5. Liên hợp quốc (2003), Công ước phòng chống tham nhũng, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.

6. Hoàng Phê (2010), Từ điển tiếng Việt, Nhà xuất bản Từ điển Bách khoa, Hà Nội.

7. Lê Minh Khái (2020), “Việt Nam thực thi Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng - Kết quả và những vấn đề đặt ra”;

8. Quốc hội (2015), Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, Hà Nội;

9. Quốc hội (1999), Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự, Hà Nội,

10. Quốc hội (2020), Luật phòng chống tham nhũng năm 2020, Hà Nội;

11. Quốc hội (2015), Bộ luật Dân sự năm 2015;

12. Báo cáo tổng kết công tác Tòa án quân sự của Tòa án quân sự Trung ương từ năm 2020 đến 2024;

13. Báo cáo tổng kết công tác Tòa án quân sự của Tòa án quân sự Thủ đô Hà Nội từ năm 2020 đến 2024.

14. Thông báo kết quả kiểm tra án của Uỷ ban Thẩm phán Tòa án quân sự Trung ương từ năm 2020 đến 2024;

15. Thông báo kết quả kiểm tra án của Uỷ ban Thẩm phán Tòa án quân sự Thủ đô Hà Nội từ năm 2020 đến 2024.

16. Chuyên đề tập huấn 6 tháng đầu năm 2024 của Tòa án quân sự Trung ương về “Xét xử các vụ án tham nhũng”.

ĐỖ NGỌC BÌNH

Tòa án quân sự khu vực Thủ đô Hà Nội

TRẦN QUÝ

Các tin khác