Các góp ý này được xây dựng trên cơ sở nghiên cứu kỹ lưỡng các văn kiện chính thức, đặc biệt là Nghị quyết số 60-NQ/TW ngày 12/4/2025 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII (Nghị quyết 60) về Hội nghị lần thứ 11 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, đồng thời có tham khảo, đối chiếu với các lý thuyết pháp lý, kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn vận hành bộ máy nhà nước Việt Nam.

Ảnh minh họa.
I. Tính tất yếu khách quan và cơ sở lý luận, thực tiễn của việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp
Nghị quyết số 60-NQ/TW đã vạch rõ những định hướng chiến lược về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Đây chính là kim chỉ nam, là cơ sở chính trị pháp lý quan trọng nhất cho lần sửa đổi Hiến pháp này.
Thực tiễn hơn 11 năm thi hành Hiến pháp 2013 đã minh chứng cho những giá trị tiến bộ, nền tảng của nó, song cũng bộc lộ những điểm mà giới hạn của quy định hiện hành chưa theo kịp hoặc chưa tạo đủ không gian cho sự phát triển và đổi mới. Đối với MTTQVN và các tổ chức chính trị - xã hội, mặc dù vai trò và vị thế không ngừng được củng cố, nhưng cơ chế phối hợp, thống nhất hành động cần phải được tối ưu hóa để tránh sự phân tán nguồn lực và nâng cao hiệu quả thực chất, đặc biệt là trong việc thực thi dân chủ, đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân, cũng như trong công tác giám sát và phản biện xã hội – những chức năng hiến định mang tính sống còn đối với một nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Sự thiếu vắng các chế tài đủ mạnh và cơ chế giải trình trách nhiệm rõ ràng đã phần nào hạn chế tác động của các kiến nghị từ MTTQVN.
Trong lĩnh vực tổ chức chính quyền địa phương, mô hình ba cấp hành chính (tỉnh, huyện, xã) đã bộc lộ những nhược điểm cố hữu trong bối cảnh phát triển mới. Cấp huyện, với vai trò trung gian, nhiều khi trở thành một "điểm nghẽn" trong lưu thông mệnh lệnh hành chính, làm tăng chi phí tuân thủ cho người dân và doanh nghiệp, đồng thời làm giảm tính linh hoạt và chủ động của chính quyền cơ sở. Sự phân mảnh của các đơn vị hành chính, đặc biệt ở cấp xã, cùng với việc phân cấp, phân quyền chưa thực sự mạnh mẽ và đồng bộ với nguồn lực, đã hạn chế khả năng của chính quyền địa phương trong việc giải quyết hiệu quả các vấn đề kinh tế - xã hội trên địa bàn. Do đó, việc Hiến pháp mở đường cho một cuộc tái cấu trúc mạnh mẽ, hướng tới mô hình chính quyền địa phương hai cấp, là một đòi hỏi mang tính đột phá, phù hợp với xu thế quản trị công hiện đại.
II. Tham luận về các quy định cụ thể trong dự thảo
1. Về vị thế, vai trò và cơ chế vận hành của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội trong bối cảnh mới (Điều 9, Điều 10, khoản 1 Điều 84 Hiến pháp)
Dự thảo sửa đổi Điều 9 Hiến pháp, trong đó định vị các tổ chức chính trị - xã hội nòng cốt trực thuộc MTTQVN và hoạt động dưới sự chủ trì thống nhất của Mặt trận, là một bước tiến quan trọng nhằm hiện thực hóa chủ trương của Nghị quyết số 60-NQ/TW. Mục tiêu là tạo ra một cơ chế liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện chặt chẽ hơn, hiệu quả hơn, nơi MTTQVN thực sự là hạt nhân quy tụ và phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Tuy nhiên, để sự "chủ trì" và "thống nhất hành động" này không trở thành sự áp đặt hành chính hay làm suy yếu vai trò đặc thù của từng tổ chức thành viên thì cần phải có những quy định và cơ chế vận hành tinh tế. Ngoài ra, Hiến pháp cần tạo nền tảng vững chắc, còn Luật MTTQVN (sửa đổi) phải chi tiết hóa cơ chế hiệp thương dân chủ thực chất, đảm bảo sự bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau giữa các thành viên trong việc quyết định các vấn đề chung.
Cần xác định rõ phạm vi "chủ trì" của Mặt trận, tập trung vào những vấn đề mang tính chiến lược, liên ngành, liên lĩnh vực, đồng thời phát huy tối đa sở trường, thế mạnh của từng tổ chức thành viên trong các hoạt động cụ thể. Việc tập trung quyền trình dự án luật, pháp lệnh vào Ủy ban Trung ương MTTQVN (sửa đổi Điều 84) là cần thiết để đảm bảo tính thống nhất, nhưng phải đi kèm với cơ chế đảm bảo các sáng kiến lập pháp từ các tổ chức thành viên được lắng nghe, thẩm định và trình bày một cách khách quan.
Một trong những trọng tâm cải cách liên quan đến MTTQVN chính là nâng cao thực chất và hiệu quả của công tác giám sát và phản biện xã hội. Đây không chỉ là quyền mà còn là trách nhiệm hiến định của Mặt trận. Để vượt qua những rào cản về tính hình thức, sự né tránh, ngại va chạm, Hiến pháp cần nhấn mạnh hơn nữa tính ràng buộc pháp lý của các kết luận, kiến nghị sau giám sát, phản biện của MTTQVN.
Có thể xem xét bổ sung một khoản vào Điều 9, quy định về nghĩa vụ của các cơ quan nhà nước trong việc xem xét, trả lời, giải trình và chịu trách nhiệm thực hiện các kiến nghị hợp pháp, chính đáng của Mặt trận. Luật MTTQVN cần quy định cụ thể hơn về quy trình giám sát, phản biện độc lập, khách quan; cơ chế tiếp cận thông tin, huy động chuyên gia; cơ chế công khai kết quả giám sát, phản biện; và đặc biệt là cơ chế theo dõi, đôn đốc việc thực hiện kiến nghị, thậm chí kiến nghị các hình thức xử lý trách nhiệm đối với các trường hợp cố tình phớt lờ hoặc không thực hiện. Điều này sẽ góp phần xây dựng một cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước từ phía xã hội hiệu quả hơn.
Đối với Điều 10 về Công đoàn Việt Nam, việc bổ sung vai trò đại diện cấp quốc gia trong quan hệ lao động và hợp tác quốc tế về công đoàn là hoàn toàn xác đáng. Trong bối cảnh Việt Nam tham gia sâu rộng vào các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới với các cam kết về lao động, vai trò này của Công đoàn càng trở nên quan trọng. Cần đảm bảo rằng, dù hoạt động trong cơ cấu thống nhất của Mặt trận nhưng Công đoàn vẫn phải giữ được vị thế độc lập tương đối cần thiết để bảo vệ một cách tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động và tham gia vào vấn đề xây dựng chính sách lao động, giải quyết tranh chấp lao động một cách công bằng, nghiêm minh và có hiệu quả cao.
2. Tái cấu trúc mô hình tổ chức chính quyền địa phương: Hướng tới sự tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả và gần dân (Chương IX Hiến pháp, đặc biệt là các Điều 110, 111, 112, 114, 115)
Chủ trương xây dựng mô hình chính quyền địa phương hai cấp (cấp tỉnh và cấp xã), loại bỏ cấp huyện, là một cuộc cách mạng trong tổ chức quản lý nhà nước ở địa phương. Đây là cơ hội để khắc phục tình trạng quan liêu, chồng chéo, kém hiệu quả của mô hình ba cấp hiện tại, đồng thời tăng cường tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm và năng lực của chính quyền cơ sở, nơi trực tiếp tiếp xúc và giải quyết các nhu cầu của người dân.
Sửa đổi Điều 110 Hiến pháp theo hướng quy định tổng quát về các đơn vị hành chính là phù hợp, tạo sự linh hoạt cho luật định. Tuy nhiên, Luật Tổ chức Chính quyền địa phương (sửa đổi) sắp tới phải đối mặt với thách thức lớn trong việc xác định các tiêu chí cụ thể, khoa học và khả thi cho việc sắp xếp, thành lập, sáp nhập các đơn vị hành chính, đặc biệt là ở cấp xã. Việc sáp nhập các xã cần tính đến không chỉ yếu tố quy mô dân số, diện tích tự nhiên mà còn cả các yếu tố về văn hóa, lịch sử, địa lý, điều kiện kinh tế - xã hội, năng lực quản lý, đảm bảo sau sáp nhập, các đơn vị hành chính mới phải mạnh hơn, hiệu quả hơn và không tạo ra những "siêu xã" khó quản lý hoặc làm mất đi bản sắc cộng đồng. Cần có những quy định riêng, đặc thù cho các đô thị (phường, thị trấn) và các khu vực có tính chất đặc biệt (biên giới, hải đảo, vùng dân tộc thiểu số).
Mấu chốt của thành công trong việc chuyển đổi sang mô hình hai cấp chính là việc thực hiện triệt để và thực chất nguyên tắc phân cấp, phân quyền, như tinh thần Nghị quyết số 60-NQ/TW đã nhấn mạnh: "địa phương quyết, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm".
Vậy nên, Điều 112 sửa đổi cần được cụ thể hóa bằng các quy định pháp luật rõ ràng, minh bạch về việc giao nhiệm vụ, thẩm quyền, nguồn lực (tài chính, biên chế, cơ sở vật chất, …) và trách nhiệm giải trình cho từng cấp chính quyền. Đặc biệt, chính quyền cấp xã phải được trao đủ thực quyền và đảm bảo đủ nguồn lực để có thể giải quyết phần lớn các công việc liên quan trực tiếp đến người dân và quản lý cộng đồng trên địa bàn. Điều này đòi hỏi một sự thay đổi căn bản trong tư duy quản lý, từ quản lý trực tiếp, can thiệp sâu sang quản lý bằng chiến lược, quy hoạch, chính sách, pháp luật và tăng cường kiểm tra, giám sát của cấp tỉnh đối với cấp xã. Việc tăng quyền phải đi đôi với tăng cường trách nhiệm và nâng cao năng lực.
Việc tổ chức Hội đồng Nhân dân (HĐND) và Ủy ban Nhân dân (UBND) ở cấp tỉnh và cấp xã cần được Luật hóa một cách chi tiết, đảm bảo HĐND thực sự là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, thực hiện tốt chức năng quyết định các vấn đề quan trọng và giám sát hiệu quả hoạt động của UBND. Cần có cơ chế để HĐND cấp xã, dù quy mô nhỏ hơn, vẫn có thể hoạt động thực chất, phát huy vai trò đại diện của nhân dân.
Hoạt động của đại biểu HĐND (Điều 115) cần được chú trọng, tạo điều kiện để họ thực hiện tốt nhiệm vụ tiếp xúc cử tri, lắng nghe ý kiến nhân dân và tham gia vào quá trình ra quyết định của HĐND. Mặc dù không còn chất vấn trực tiếp Chánh án Tòa án và Viện trưởng Viện kiểm sát nhưng HĐND vẫn cần có các cơ chế giám sát hiệu quả đối với công tác tư pháp, bảo đảm tính thượng tôn pháp luật và quyền con người tại địa phương.
3. Các quy định chuyển tiếp: Đảm bảo sự ổn định, thông suốt và quyền lợi của người dân (Điều 2 Dự thảo)
Quá trình chuyển đổi từ mô hình ba cấp sang hai cấp, cùng với việc sắp xếp lại MTTQVN và các tổ chức thành viên, là một sự thay đổi vô cùng lớn, tác động sâu rộng đến toàn bộ hệ thống chính trị và đời sống xã hội. Do đó, các quy định chuyển tiếp tại Điều 2 của Dự thảo có vai trò cực kỳ quan trọng, quyết định sự thành bại của cuộc cải cách. Các quy định này phải được xây dựng với tầm nhìn xa, tính toán kỹ lưỡng mọi tình huống có thể phát sinh, đảm bảo nguyên tắc không làm gián đoạn hoạt động của bộ máy nhà nước, không gây xáo trộn lớn đến đời sống, sản xuất của người dân và hoạt động của doanh nghiệp.
Cần đặc biệt chú trọng đến việc xây dựng các quy định chi tiết, cụ thể về:
Thứ nhất, quy trình bàn giao và tiếp nhận toàn bộ hồ sơ, tài liệu, tài sản công, trụ sở làm việc, nghĩa vụ tài chính, các dự án, chương trình đang triển khai của các cơ quan cấp huyện.
Thứ hai, cơ chế giải quyết các vấn đề pháp lý tồn đọng hoặc phát sinh trong quá trình chuyển giao, bao gồm các vụ việc khiếu nại, tố cáo, tranh chấp dân sự, kinh tế, lao động, các vụ án hình sự, hành chính.
Thứ ba, chính sách toàn diện và nhân văn đối với đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức dôi dư sau khi sắp xếp, bao gồm các phương án điều chuyển, đào tạo lại, nghỉ hưu trước tuổi, giải quyết thôi việc, đảm bảo quyền lợi chính đáng và ổn định tư tưởng.
Thứ tư, hướng dẫn cụ thể, rõ ràng cho người dân và doanh nghiệp về việc điều chỉnh các loại giấy tờ pháp lý cá nhân, giấy phép kinh doanh, đăng ký tài sản, ... khi có sự thay đổi về đơn vị hành chính, theo hướng đơn giản hóa thủ tục, giảm thiểu chi phí và không gây phiền hà.
Thứ năm, cơ chế đảm bảo tính liên tục và chất lượng của các dịch vụ công thiết yếu, đặc biệt là y tế, giáo dục, an sinh xã hội, trong và sau giai đoạn chuyển tiếp.
III. Tổ chức thực hiện: Yếu tố quyết định thành công của cải cách
Một bản Hiến pháp dù tiến bộ đến đâu cũng chỉ phát huy được giá trị khi được tổ chức thực hiện một cách nghiêm túc, khoa học và hiệu quả. Để các quy định sửa đổi, bổ sung Hiến pháp lần này thực sự đi vào cuộc sống và tạo ra những chuyển biến tích cực, công tác tổ chức thực hiện cần được đặc biệt coi trọng với những giải pháp mang tính đột phá.
Trước hết, công tác thông tin, tuyên truyền, quán triệt sâu rộng trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân về ý nghĩa, tầm quan trọng và nội dung cốt lõi của việc sửa đổi Hiến pháp, cũng như các chủ trương lớn về cải cách tổ chức bộ máy, phải được tiến hành bài bản, đa dạng về hình thức, dễ hiểu, dễ tiếp cận, nhằm tạo sự đồng thuận cao trong xã hội, huy động sự tham gia tích cực của người dân vào quá trình giám sát việc thực thi.
Song song đó, việc xây dựng và hoàn thiện đồng bộ hệ thống pháp luật dưới Hiến pháp là nhiệm vụ cấp bách. Quốc hội, Chính phủ và các cơ quan hữu quan cần khẩn trương rà soát, sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới hàng loạt các văn bản quy phạm pháp luật, từ các đạo luật quan trọng như Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Tổ chức chính quyền địa phương, Luật MTTQVN, Luật Công đoàn, các luật về tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp, cho đến các nghị định, thông tư hướng dẫn chi tiết, đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ, tránh xung đột, chồng chéo hoặc khoảng trống pháp lý.
Nâng cao năng lực toàn diện cho chính quyền cấp xã – đơn vị hành chính cơ sở sau cải cách – phải được xác định là một chương trình trọng điểm quốc gia. Điều này bao gồm việc đổi mới mạnh mẽ công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã cả về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng quản lý nhà nước hiện đại, đạo đức công vụ, văn hóa ứng xử và năng lực ứng dụng công nghệ thông tin. Cần có cơ chế tuyển dụng, thu hút người có tài năng, tâm huyết về làm việc tại cơ sở, đi đôi với chính sách đãi ngộ xứng đáng và môi trường làm việc chuyên nghiệp. Việc kiện toàn tổ chức bộ máy của chính quyền cấp xã cũng cần được tính toán khoa học, phù hợp với quy mô dân số, diện tích và đặc điểm kinh tế - xã hội của từng địa phương, đảm bảo tinh gọn nhưng vẫn đủ sức đảm đương nhiệm vụ. Đồng thời, phải tăng cường đầu tư có trọng tâm, trọng điểm cho cơ sở vật chất, hạ tầng kỹ thuật, đặc biệt là hạ tầng số, để chính quyền cấp xã có đủ điều kiện làm việc hiện đại, hiệu quả.
Quá trình sắp xếp lại đơn vị hành chính, tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ là một công việc vô cùng phức tạp, nhạy cảm, tác động đến lợi ích của nhiều đối tượng. Do đó, cần phải có sự chuẩn bị kỹ lưỡng về mọi mặt, từ việc xây dựng các đề án chi tiết, khoa học, đến việc bố trí đủ nguồn lực tài chính, vật chất và có lộ trình thực hiện hợp lý, từng bước vững chắc. Phải lường trước và có phương án xử lý các tình huống phát sinh, các vấn đề xã hội có thể nảy sinh trong quá trình thực hiện, đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.
Cuối cùng, việc thiết lập một cơ chế thường xuyên theo dõi, đôn đốc, kiểm tra, giám sát và định kỳ đánh giá kết quả thực hiện là điều kiện tiên quyết để đảm bảo cuộc cải cách đi đúng hướng và đạt được mục tiêu đề ra. Cần xây dựng bộ tiêu chí đánh giá khoa học, khách quan; kịp thời phát hiện những khó khăn, vướng mắc từ thực tiễn để có giải pháp tháo gỡ; nhân rộng những mô hình hay, cách làm sáng tạo; đồng thời kiên quyết chấn chỉnh những biểu hiện tiêu cực, hình thức, đối phó. Vai trò giám sát của MTTQVN, các tổ chức thành viên, các cơ quan dân cử và đặc biệt là của Nhân dân đối với toàn bộ quá trình này cần được đề cao và tạo điều kiện thuận lợi để thực hiện.
IV. Kết luận: Khát vọng về một nền quản trị Quố gia hiện tại, dân chủ và hiệu quả
Việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013, với những định hướng mang tính đột phá về tổ chức và hoạt động của MTTQVN cũng như mô hình chính quyền địa phương, thể hiện một khát vọng lớn lao về một nền quản trị quốc gia hiện đại, dân chủ, hiệu lực và hiệu quả hơn. Đây không chỉ là sự điều chỉnh về mặt kỹ thuật pháp lý, mà còn là sự đổi mới sâu sắc về tư duy, nhận thức và phương thức vận hành của cả hệ thống chính trị, hướng tới mục tiêu cao nhất là phục vụ Nhân dân ngày một tốt hơn, giải phóng mọi nguồn lực cho sự phát triển bền vững của đất nước.
Con đường cải cách luôn có những chông gai, thử thách, đòi hỏi sự quyết tâm chính trị phi thường, trí tuệ tập thể và sự đồng lòng, chung sức của toàn dân tộc. Chúng tôi tin tưởng rằng, với sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự điều hành quyết liệt, khoa học của Nhà nước, cùng với sự tham gia tích cực, chủ động và giám sát hiệu quả của MTTQVN và các tầng lớp nhân dân, công cuộc đổi mới thể chế và tổ chức bộ máy lần này sẽ đạt được những thành tựu rực rỡ, tạo ra một động lực mới, một sinh khí mới cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, vì một tương lai tươi sáng hơn cho các thế hệ mai sau.
Luật sư NGUYỄN VĂN HẬU
Ủy viên Ban Thường vụ;
Chủ nhiệm Cơ quan Truyền thông
Liên đoàn Luật sư Việt Nam