Nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước về công chứng ở Việt Nam

13/07/2024 21:38 | 2 tháng trước

(LSVN) - Bài viết khái quát về hoạt động công chứng và thực trạng quản lý nhà nước về công chứng ở Việt Nam; nêu ra một số bất cập, hạn chế trong quản lý Nhà nước về công chứng và nguyên nhân; đồng thời đề xuất một số giải pháp để nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước về công chứng.

Ảnh minh họa.

Khái quát chung về hoạt động công chứng

Công chứng là một loại hoạt động dịch vụ công, hướng đến mục tiêu bảo đảm sự an toàn cho các giao dịch dân sự, hạn chế đến mức thấp nhất các tranh chấp có thể xảy ra, góp phần ổn định trật tự, an toàn xã hội nói chung. Mặt khác, hoạt động công chứng có yếu tố của loại hình dịch vụ hành chính công, tạo điều kiện cho hoạt động quản lý Nhà nước được lành mạnh và hiệu quả.

Theo khoản 1 Điều 2 Luật công chứng năm 2014, công chứng là việc chứng nhận tính xác thực, hợp pháp của hợp đồng, của các giao dịch dân sự khác bằng văn bản; chứng nhận tính chính xác, hợp pháp, không trái đạo đức xã hội của bản dịch giấy tờ, văn bản từ tiếng Việt sang tiếng nước ngoài hoặc từ tiếng nước ngoài sang tiếng Việt. Hoạt động công chứng được thực hiện bởi công chứng viên của một tổ chức hành nghề công chứng. Hiện nay, có hai hình thức tổ chức hành nghề công chứng là phòng công chứng và văn phòng công chứng. Trong đó, phòng công chứng là đơn vị sự nghiệp công lập có tài khoản và con dấu riêng đặt dưới sự quản lý trực tiếp của sở tư pháp. Văn phòng công chứng là tổ chức hành nghề công chứng được tổ chức và hoạt động theo quy định của Luật Công chứng với tư cách là một đơn vị sự nghiệp ngoài công lập, đồng thời hoạt động theo quy định của pháp luật với tính cách là loại hình công ty hợp danh. Phòng công chứng và văn phòng công chứng đều do ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định thành lập. Hoạt động công chứng được thực hiện bởi các công chứng viên. Công chứng viên là người có đủ tiêu chuẩn theo quy định của Luật Công chứng được Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm, thực hiện hoạt động nghề nghiệp tại phòng công chứng hoặc văn phòng công chứng. Việc cho phép thành lập văn phòng công chứng thể hiện mục tiêu xã hội hóa hoạt động công chứng. Công chứng viên thuộc biên chế của phòng công chứng là viên chức, công chứng viên hoạt động nghề nghiệp tại văn phòng công chứng không phải là viên chức. Tuy nhiên, họ đều phải chịu trách nhiệm như nhau đối với văn bản công chứng do mình thực hiện. Luật Công chứng và các văn bản hướng dẫn thi hành không có sự phân biệt về giá trị pháp lý của văn bản công chứng được thực hiện tại phòng công chứng hay được thực hiện tại văn phòng công chứng. Tuy nhiên, việc lựa chọn tổ chức công chứng để thực hiện giao dịch về bất động sản lại bị hạn chế bởi quy định về địa hạt tại Điều 42 Luật Công chứng: Công chứng viên của tổ chức hành nghề công chứng chỉ được công chứng hợp đồng, giao dịch về bất động sản trong phạm vi tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi tổ chức hành nghề công chứng đặt trụ sở, trừ trường hợp công chứng di chúc, văn bản từ chối nhận di sản là bất động sản và văn bản ủy quyền liên quan đến việc thực hiện các quyền đối với bất động sản.

Có thể khẳng định rằng xã hội và người dân cần đến hoạt động công chứng. Bởi lẽ, trong các giao dịch đơn thuần giữa các bên về dân sự cũng như trong hoạt động kinh doanh, thương mại, rất có thể do sự thiếu am hiểu luật pháp, thiếu thông tin về tình trạng pháp lý của các đối tượng giao dịch của một hoặc cả hai bên… sẽ khiến cho các giao dịch chứa đựng rất nhiều rủi ro, dẫn đến những hậu quả bất lợi, những tranh chấp xâm hại đến quyền lợi hợp pháp của các bên tham gia giao dịch và cũng đẩy gánh nặng về phía cơ quan chức năng trong việc giải quyết những hậu quả này. Hoạt động công chứng thực hiện tốt sẽ góp phần bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người dân, tạo điều kiện cho hoạt động quản lý xã hội được lành mạnh và có hiệu quả.

Nội dung quản lý Nhà nước về công chứng

Quản lý Nhà nước về công chứng là việc Nhà nước thông qua các quy định pháp luật để tổ chức, điều hành, tác động vào các tổ chức hành nghề công chứng nói chung và công chứng viên nói riêng trong việc chứng nhận tính xác thực, tính hợp pháp của các giao dịch, hợp đồng, bảo đảm cho hoạt động công chứng diễn ra theo định hướng của Nhà nước, phù hợp với xu thế phát triển của kinh tế - xã hội.

Luật Công chứng năm 2014 (sửa đổi, bổ sung năm 2018) đã nêu rõ trách nhiệm, nhiệm vụ và quyền hạn của các chủ thể trong việc quản lý các tổ chức hành nghề công chứng và công chứng viên trong các tổ chức đó, bao gồm Chính phủ, Bộ Tư pháp, các bộ, ngành có liên quan và ủy ban nhân dân cấp tỉnh cũng như các sở tư pháp trong công tác quản lý Nhà nước về công chứng(1).

Đối với các tổ chức hành nghề công chứng, hoạt động quản lý Nhà nước đối với văn phòng công chứng và phòng công chứng thể hiện trong các quy định về tiêu chuẩn thành lập, cấp phép thành lập, bổ nhiệm công chứng viên, giám sát, kiểm tra, thanh tra và xử lý vi phạm, giải quyết tranh chấp và đánh giá hoạt động công chứng. Trên cơ sở đó, tạo khuôn khổ pháp lý cho quá trình tổ chức và hoạt động của các tổ chức hành nghề công chứng để hệ thống văn phòng công chứng và phòng công chứng trên cả nước được ổn định và phát triển dưới sự quản lý chặt chẽ, nghiêm nghặt của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền mà cụ thể là Chính phủ, Bộ Tư pháp. Có thể thấy rằng, sự phát triển của các tổ chức hành nghề công chứng cần thiết phải có sự điều tiết, phân bổ và kiểm soát trong một quy hoạch nhất định, đặc biệt sau thời điểm hoạt động công chứng được xã hội hóa. Theo đó, Nhà nước thực hiện quản lý về công chứng trên phạm vi cả nước để bảo đảm các văn phòng công chứng và phòng công chứng được thành lập và phân bố một cách hợp lý, khoa học và đáp ứng được nhu cầu công chứng của nhân dân một cách đầy đủ, thuận tiện nhất.

Đối với hoạt động của công chứng viên, hoạt động quản lý của Nhà nước cũng mang nhiều ý nghĩa quan trọng. Thứ nhất, ở Việt Nam hiện nay, công chứng viên có thể thực hiện hoạt động công chứng độc lập, không bị chi phối hoặc áp đặt bởi bất cứ tổ chức hoặc cá nhân nào, do đó người thực hiện hành vi công chứng phải chịu trách nhiệm cá nhân trước pháp luật về công việc do mình thực hiện. Công chứng viên trong tác nghiệp chuyên môn không phải chịu trách nhiệm trước cơ quan quản lý hay trước trưởng phòng, văn phòng công chứng mà tự chịu trách nhiệm trước pháp luật. Công chứng viên có sự độc lập khi tác nghiệp, vì thế ở khía cạnh này, công chứng viên không bị lệ thuộc vào cấp trên. Pháp luật không cho phép các cơ quan quản lý, trưởng phòng công chứng và văn phòng công chứng áp đặt mệnh lệnh hành chính hay can thiệp thiếu căn cứ pháp luật vào tác nghiệp chuyên môn. Thứ hai, quản lý Nhà nước có vai trò định hướng sự phát triển của ngành theo lĩnh vực công chứng, xuất phát từ bản chất của hoạt động công chứng là một hoạt động công quyền của Nhà nước. Công chứng là hoạt động được Nhà nước ủy quyền để chứng nhận tính hợp pháp, tính xác thực của các hợp đồng, giao dịch. Vì thế, việc xác định phạm vi, ranh giới các việc công chứng, nói cách khác là xác định thẩm quyền của công chứng viên được thực hiện những công việc gì có ý nghĩa rất quan trọng đối với Nhà nước trong quản lý đối với công chứng viên nói riêng và các tổ chức hành nghề công chứng nói chung, nhằm phòng ngừa những vi phạm rất dễ xảy ra trong lĩnh vực này. Thứ ba, việc xác định mục đích và nội dung hợp đồng khi công chứng không vi phạm pháp luật, không trái đạo đức xã hội là giới hạn phạm vi hoạt động của công chứng viên. Hoạt động thanh tra, kiểm tra hoạt động công chứng của các tổ chức hành nghề công chứng được Bộ Tư pháp cùng các cơ quan hữu quan thực hiện thường xuyên và nghiệm ngặt. Nhà nước sẽ áp dụng trách nhiệm pháp lý rất nặng nề đối với các chủ thể vi phạm khi thực hiện hành vi công chứng, điều đó đòi hỏi công chứng viên vừa phải có nghiệp vụ chuyên môn cao, vừa phải có đạo đức nghề nghiệp trong sáng mới có thể đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ.

Thực trạng quản lý Nhà nước về công chứng

Thực tiễn thi hành Luật Công chứng từ năm 2014 đến nay cho thấy hoạt động công chứng có nhiều bước tiến mới. Đội ngũ công chứng viên ngày càng phát triển, chất lượng được nâng lên; tổ chức hành nghề công chứng lớn mạnh cả về quy mô và phạm vi hoạt động với tính chuyên nghiệp ngày càng cao, đáp ứng yêu cầu của xã hội và nhu cầu công chứng của người dân, doanh nghiệp. Công tác quản lý về công chứng đã mang lại những kết quả tích cực, cụ thể như sau:

Về đội ngũ công chứng viên: Thời điểm tổng kết việc thực hiện Luật Công chứng năm 2006 cả nước mới chỉ có 1.180 công chứng viên. Tính đến ngày 31/12/2021, cả nước có 3.074 công chứng viên, số lượng công chứng viên tăng khoảng gần 2,7 lần so với thời điểm Luật Công năm 2006 chứng bắt đầu có hiệu lực thi hành(2). Các công chứng viên được bổ nhiệm theo Luật Công chứng năm 2014 đều có trình độ cử nhân luật trở lên; đều qua đào tạo, bồi dưỡng, tập sự hành nghề công chứng và đạt yêu cầu kiểm tra kết quả tập sự hành nghề công chứng. Các công chứng viên đều được đăng ký hành nghề và cấp thẻ công chứng viên trước khi ký văn bản công chứng. Hoạt động công chứng của các công chứng viên cơ bản bảo đảm đúng quy định của pháp luật nói chung và pháp luật về công chứng nói riêng. Đa số công chứng viên có đạo đức nghề nghiệp, tâm huyết và chuyên tâm với nghề.

Bên cạnh đó, Bộ Tư pháp đã chú trọng đào tạo, bồi dưỡng nghề công chứng, tập sự hành nghề công chứng và kiểm tra kết quả tập sự hành nghề công chứng. Học viên được trang bị kiến thức và thực tiễn để tham dự kiểm tra kết quả tập sự hành nghề công chứng(3). Công tác bổ nhiệm công chứng viên được thực hiện chặt chẽ, đúng theo quy định của pháp luật. Trong 7 năm sau khi Luật Công chứng năm 2014 có hiệu lực, Bộ Tư pháp đã bổ nhiệm công chứng viên cho 1.019 người, bổ nhiệm lại công chứng viên cho 128 người, miễn nhiệm công chứng viên cho 179 người(4). Hằng năm, Bộ Tư pháp, các sở tư pháp, Hội Công chứng viên các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đều tổ chức bồi dưỡng bắt buộc hằng năm đối với đội ngũ công chứng viên hành nghề; cập nhật, bổ sung kiến thức pháp luật về công chứng và các quy định khác có liên quan. Đồng thời, giúp các công chứng viên nâng cao kỹ năng, cách thức giải quyết các vấn đề vướng mắc trong quá trình hành nghề công chứng.

Về các tổ chức hành nghề công chứng: Thời điểm thực hiện Luật Công chứng năm 2006, cả nước có 625 tổ chức hành nghề công chứng. Đến năm 2022, cả nước đã có 1.298 tổ chức hành nghề công chứng(5). Các tổ chức hành nghề công chứng đã thực hiện hơn 41 triệu việc công chứng; tổng số phí công chứng thu được hơn 13 nghìn tỉ đồng; tổng số thù lao công chứng thu được hơn 2 nghìn tỉ đồng; tổng số tiền nộp thuế và nộp ngân sách Nhà nước hơn 2,3 nghìn tỉ đồng. Các việc công chứng hợp đồng, giao dịch về đất đai, nhà ở, bất động sản và tài sản quan trọng khác chiếm tỉ lệ từ 70-80% số việc công chứng và giá trị phí, thù lao công chứng, góp phần bảo đảm an toàn pháp lý cho các hợp đồng, giao dịch đối với những tài sản có giá trị lớn, đóng vai trò là phương tiện sản xuất cơ bản trong nền kinh tế. Việc công chứng các hợp đồng, giao dịch về đất đai, nhà ở còn góp phần quan trọng trong công tác quản lý Nhà nước đối với quá trình chuyển quyền sở hữu nhà, quyền sử dụng đất, tránh thất thoát nguồn thu thuế, giảm gánh nặng cho cơ quan tiến hành tố tụng thông qua việc giảm thiểu số lượng và quy mô tranh chấp phát sinh từ việc thực hiện các giao dịch liên quan.

Bên cạnh đó, Bộ Tư pháp còn ban hành nhiều công văn triển khai, hướng dẫn nghiệp vụ, kiểm tra, thanh tra, chấn chỉnh những mặt còn tồn tại nhằm nâng cao chất lượng hoạt động công chứng và tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước về hoạt động công chứng tại địa phương. Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra theo kế hoạch hàng năm và đột xuất theo thông tin phản ánh của cá nhân, tổ chức, trong đó tập trung vào các địa phương mà qua thông tin quản lý, báo chí phản ánh có nhiều dấu hiệu vi phạm pháp luật, vi phạm Quy tắc đạo đức hành nghề công chứng để kịp thời chấn chỉnh, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm. Trong quá trình thi hành Luật Công chứng, Bộ Tư pháp và các sở tư pháp đã thực hiện thanh tra tại hơn 2.000 tổ chức hành nghề công chứng; ban hành hơn 700 quyết định xử phạt tổ chức hành nghề công chứng và công chứng viên; tổng số tiền xử phạt vi phạm hành chính hơn 4 tỉ đồng, tước quyền sử dụng thẻ công chứng viên 06 trường hợp(6).

Ngoài ra, Bộ Ngoại giao đã tích cực phối hợp với Bộ Tư pháp trong việc hướng dẫn, kiểm tra, thanh tra việc thực hiện công chứng của cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài, tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ công chứng cho viên chức lãnh sự, viên chức ngoại giao được giao thực hiện công chứng. Đã tổ chức 10 khóa bồi dưỡng nghiệp vụ lãnh sự cho 1.800 học viên, cử 03 đoàn công tác đi tư vấn lãnh sự với các nước kết hợp hướng dẫn nghiệp vụ cho cán bộ của 13 cơ quan đại diện...(7).

Bên cạnh các kết quả đạt được, thực tế cho thấy việc thực hiện một số quy định của pháp luật về hoạt động công chứng vẫn còn nhiều vướng mắc, bất cập, như: việc đào tạo, bồi dưỡng, tập sự và kiểm tra kết quả tập sự hành nghề công chứng; chất lượng đội ngũ công chứng viên chưa đồng đều, còn có hiện tượng vi phạm pháp luật, đạo đức hành nghề; việc phát triển các tổ chức hành nghề công chứng còn lúng túng, thiếu nhất quán, nhất là sau khi bỏ Quy hoạch tổng thể tổ chức hành nghề công chứng; cơ chế tài chính đối với phòng công chứng tự chủ về tài chính còn nhiều vướng mắc; một số quy định của pháp luật về loại hợp đồng, giao dịch về đất đai, nhà ở phải được công chứng và về thời điểm có hiệu lực của hợp đồng còn có quan điểm, cách hiểu khác nhau dẫn đến khó khăn trong tổ chức thực hiện; việc ứng dụng công nghệ thông tin chưa tương xứng với sự phát triển các nhu cầu giao dịch trong hoạt động công chứng, chưa đáp ứng yêu cầu ngăn ngừa các hành vi lừa đảo, lợi dụng công chứng để hợp pháp hóa các giao dịch bất hợp pháp, gây mất trật tự, an toàn xã hội; công tác quản lý Nhà nước còn thiếu công cụ hỗ trợ cần thiết trong bối cảnh xã hội hóa mạnh mẽ hoạt động công chứng; tổ chức xã hội - nghề nghiệp của công chứng viên chưa phát huy đầy đủ vai trò tự quản.

Những vướng mắc, bất cập trong thực hiện một số quy định của pháp luật về hoạt động công chứng do nhiều nguyên nhân, có nguyên nhân từ chính sách, pháp luật, có nguyên nhân từ tổ chức thực hiện. Trong đó, một số quy định của Luật Công chứng không còn phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội. Bên cạnh đó, một số quy định của các luật có liên quan đến hoạt động công chứng như Luật Đất đai, Luật Nhà ở, Luật Kinh doanh bất động sản còn chưa thống nhất, đồng bộ, gây khó khăn trong tổ chức thực hiện.

Cùng với đó, nhận thức về vị trí, vai trò của nghề công chứng ở một số cơ quan, địa phương còn chưa đầy đủ, vẫn còn cách hiểu coi công chứng là hoạt động kinh doanh thông thường. Nhận thức về nghề công chứng của một bộ phận công chứng viên chưa đầy đủ, còn tình trạng chạy theo lợi nhuận, lợi ích cá nhân trong quá trình hành nghề. Một số công chứng viên chưa cập nhật đầy đủ kiến thức pháp luật, nghiệp vụ, chuyên môn, kỹ năng hành nghề; phẩm chất chính trị, đạo đức và ứng xử nghề nghiệp còn hạn chế; chưa có ý thức trong việc xây dựng và bảo vệ uy tín, hình ảnh của nghề…

Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước về công chứng

Để khắc phục các vướng mắc, bất cập, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác thực hiện pháp luật về công chứng và pháp luật có liên quan trong thời gian tới, cần nghiên cứu, xây dựng dự án Luật Công chứng (sửa đổi) nhằm tiếp tục thể chế hóa chủ trương của Đảng về cải cách tư pháp, cải cách thủ tục hành chính, đồng thời khắc phục những vướng mắc, bất cập hiện nay về tổ chức và hoạt động công chứng. Trong đó, cần tiếp tục tập trung vào một số định hướng sau đây:

Một là, phát triển đội ngũ công chứng viên có chất lượng, số lượng phù hợp với nhu cầu xã hội, gắn việc bảo đảm quyền hành nghề của công chứng viên với việc chịu trách nhiệm trước pháp luật và người yêu cầu công chứng. Cụ thể:

(i) Nghiên cứu thu hẹp đối tượng được miễn đào tạo nghề công chứng. Trong trường hợp không thu hẹp thì nghiên cứu bổ sung các kiến thức và kỹ năng vào chương trình tham gia khóa bồi dưỡng kỹ năng hành nghề công chứng và quy tắc đạo đức hành nghề công chứng để bảo đảm người tham gia bồi dưỡng có đủ kiến thức, kỹ năng, đạo đức hành nghề công chức.

(ii) Đối với tập sự hành nghề, cần quy định rõ về trình tự, nội dung tập sự để tránh việc “đánh trống ghi tên”.

(iii) Luật Công chứng sửa đổi có thể tính đến cả việc quy định về điều kiện sức khỏe và độ tuổi tối đa hành nghề vì hiện nay nhiều công chứng viên cao tuổi hoặc không đủ sức khỏe hành nghề hoặc đã được cấp thẻ hành nghề, không làm việc nhưng cũng chưa có cơ chế thu hồi…

(iv) Nghiên cứu mở rộng các trường hợp miễn nhiệm công chứng viên phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội cũng như khả năng hành nghề của công chứng viên.

(v) Nghiên cứu bổ sung các quy định về giám sát, xử lý nghiêm và công khai các hành vi vi phạm pháp luật và đạo đức nghề nghiệp của công chứng viên.

Hai là, phát triển tổ chức hành nghề công chứng có kiểm soát gắn với địa bàn dân cư, bảo đảm đáp ứng đầy đủ, kịp thời yêu cầu công chứng của cá nhân, tổ chức; không tập trung nhiều tổ chức hành nghề công chứng trên cùng một địa bàn cấp huyện; tiếp tục đổi mới các phòng công chứng bảo đảm tinh gọn, cơ cấu hợp lý, có cơ chế tài chính phù hợp bảo đảm hoạt động có hiệu quả, giữ vai trò chủ đạo về chuyên môn và chất lượng hoạt động phục vụ nhiệm vụ chính trị, công tác quản lý Nhà nước về công chứng; có biện pháp phù hợp, khả thi nhằm hỗ trợ hiệu quả cho việc thành lập tổ chức hành nghề công chứng tại các địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn.

Công chứng là một nghề khá đặc biệt, cần sự điều tiết và quản lý chặt chẽ của Nhà nước, khi quy hoạch bị bãi bỏ thì hoạt động thành lập văn phòng công chứng được vận động và thực hiện rầm rộ, sôi nổi ở các địa phương. Kinh nghiệm của các nước về mô hình công chứng nội dung thì vai trò của tổ chức hành nghề công chứng chỉ là nơi để công chứng viên hành nghề chứ không phải nơi quản lý công chứng viên như Việt Nam hiện nay. Trong bối cảnh ứng dụng các thành quả của khoa học kỹ thuật, giao dịch điện tử đã được triển khai thực hiện trong nhiều lĩnh vực, đặc biệt là các lĩnh vực quan trọng của đất nước như thuế thì lĩnh vực công chứng cũng cần có sự đổi mới. Cần xác định chữ ký của công chứng viên hay con dấu của tổ chức hành nghề công chứng có giá trị pháp lý trong giao dịch để từ đó sửa đổi các quy định về tổ chức hành nghề công chứng cho phù hợp.

Ba là, ngoài các hợp đồng, giao dịch phải công chứng theo quy định thì khuyến khích cá nhân, tổ chức thực hiện công chứng hợp đồng, giao dịch để bảo đảm an toàn pháp lý cho các bên tham gia hợp đồng, giao dịch, góp phần giảm tải công việc của cơ quan hành chính và giảm chi ngân sách Nhà nước, trong đó nghiên cứu việc chuyển giao từng bước theo lộ trình phù hợp thẩm quyền chứng thực hợp đồng, giao dịch của ủy ban nhân dân xã, phòng tư pháp huyện về cho các tổ chức hành nghề công chứng thực hiện trong trường hợp trên địa bàn huyện đã có tổ chức hành nghề công chứng.

Bốn là, để bảo đảm việc xây dựng Cơ sở dữ liệu quốc gia về công chứng giảm thiểu các khó khăn về thời gian, nguồn lực cũng như việc chuyển đổi dữ liệu, cần xem xét, đề xuất bổ sung quy định việc Chính phủ (hoặc giao Bộ Tư pháp phối hợp với Bộ Thông tin và Truyền thông, các bộ, ngành liên quan) quy định chuẩn kết nối và xây dựng công cụ kết nối để các địa phương kết nối và chia sẻ cơ sở dữ liệu đã có của mình vào cơ sở dữ liệu chung quốc gia như kết nối, liên thông với Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, Cơ sở dữ liệu quốc gia về hộ tịch, Cơ sở dữ liệu quốc gia về đất đai, Cơ sở dữ liệu quốc gia về văn bản pháp luật, Cơ sở dữ liệu quốc gia hộ tịch điện tử, Hệ thống đăng ký giao dịch bảo đảm trực tuyến, Cơ sở dữ liệu quốc gia điện tử về thi hành án dân sự, từng bước chia sẻ dữ liệu của các cơ quan Nhà nước để cung cấp dịch vụ công kịp thời, phục vụ người dân và phát triển kinh tế - xã hội.

Năm là, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước đối với nghề công chứng, bảo đảm vai trò định hướng, điều tiết của Nhà nước trong việc phát triển nghề công chứng; gắn trách nhiệm của cơ quan quản lý Nhà nước về công chứng tại địa phương trong việc kiểm soát phát triển tổ chức hành nghề công chứng; chuẩn hóa quy trình, thủ tục công chứng cùng với việc tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động công chứng, tiến tới thực hiện công chứng hợp đồng, giao dịch trên môi trường điện tử theo quy định của Luật Giao dịch điện tử số 20/2023/QH15; nâng cao trách nhiệm trong công tác phối hợp của các bộ, ngành với Bộ Tư pháp về tổ chức và hoạt động công chứng, đặc biệt là trong việc chia sẻ thông tin, liên thông các thủ tục hành chính; đấu tranh phòng chống tội phạm, lợi dụng công chứng để hợp pháp hóa các giao dịch bất hợp pháp. Phát huy trách nhiệm tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của công chứng viên, nhất là trong việc đấu tranh với các hành vi tiêu cực, vi phạm pháp luật trong hoạt động hành nghề công chứng.

(1) Điều 69, Điều 70 Luật Công chứng năm 2014, sửa đổi, bổ sung năm 2018.

(2) Bộ Tư pháp, Báo cáo tổng kết thi hành Luật Công chứng số 197/BC-BTP ngày 09/8/2022.

(3) Bộ Tư pháp đã tổ chức 04 kỳ kiểm tra kết quả tập sự hành nghề công chứng, cấp giấy chứng nhận kết quả kiểm tra tập sự hành nghề công chứng cho gần 1.100 người vào các năm 2016, 2017, 2019, 2021-2022 (kỳ 4 và tổ chức tại 2 miền, kỳ 4 vào năm 2021 do dịch bệnh Covid nên kéo dài sang năm 2022 mới hoàn thành).

(4) Bộ Tư pháp, tlđd.

(5) Bộ Tư pháp, tlđd.

(6) Trong đó có 01 công chứng viên ở Bến Tre, 04 công chứng viên ở Đồng Nai. 01 công chứng viên ở thành phố Hồ Chí Minh.

(7) Bộ Tư pháp, tlđd.

 

 

Tài liệu tham khảo

1. Luật Công chứng năm 2006.

2. Luật Công chứng năm 2014, sửa đổi, bổ sung năm 2018.

3. Lê Sơn, Tăng cường quản lý Nhà nước về công chứng, bảo đảm hoạt động lành mạnh, hiệu quả, Báo điện tử Chính phủ, https://baochinhphu.vn/tang-cuong-quan-ly-nha-nuoc-ve-cong-chung-bao-dam-hoat-dong- lanh-manh-hieu-qua-102240324101528433.htm;

4. Duy Tuấn, Quy định rõ trách nhiệm quản lý Nhà nước về công chứng, https://congly.vn/quy-dinh-ro-trach- nhiem-quan-ly-nha-nuoc-ve-cong-chung-424133.html;

5. ThS Chu Thị Thanh Hương, Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước về công chứng, https://quochoi. vn/tintuc/Pages/tin-hoat-dong-cua-quoc-hoi.aspx?ItemID=85748.

Thạc sĩ NGUYỄN THÙY LINH 

Trường Đại học Luật Hà Nội

Cơ sở pháp lý và cách tiếp cận để giành lại nhãn hiệu bị đăng ký với dụng ý xấu