Nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của người tiến hành tố tụng hoặc người tham gia tố tụng

01/02/2024 22:52 | 3 tháng trước

(LSVN) - Nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của người tiến hành tố tụng hoặc người tham gia tố tụng là nguyên tắc có tính chất nền tảng không chỉ của pháp luật tố tụng hình sự mà còn của toàn bộ nền tư pháp trong nhà nước pháp quyền. Vì thế, nguyên tắc này chiếm vị trí đặc biệt quan trọng trong số các nguyên tắc cơ bản của pháp luật tố tụng hình sự mà ảnh hưởng của nó có tác động tích cực hoặc tiêu cực đến quá trình giải quyết vụ án, đến việc bảo đảm quyền con người. Bài viết này tập trung nghiên cứu các quan điểm, cũng như làm rõ những nội dung, vị trí, vai trò và mối liên hệ của nguyên tắc này với các vấn đề khác có liên quan.


Ảnh minh họa.

1. Các quan điểm về nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của người tiến hành tố tụng hoặc người tham gia tố tụng

Nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng, đến đã được thừa nhận trong tuyệt đại đa số pháp luật các quốc gia, được ghi nhận trong hầu hết các văn kiện pháp lý quốc tế về quyền con người. Tuy nhiên, trong quy định pháp luật, trong học thuyết, cũng như trong án lệ các nước hoặc quốc tế không phải luôn luôn có cách tiếp cận, giải thích và áp dụng giống nhau về nguyên tắc này. Từ nhận thức, quan niệm khác biệt, các nước có thể có những cách tiếp cận và đưa ra biện pháp khác nhau nhằm bảo đảm yêu cầu của nguyên tắc này trong lĩnh vực tố tụng hình sự.

Tại Việt Nam, nguyên tắc đảm bảo sự vô tư của người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng được ghi nhận là một trong những nguyên tắc cơ bản của pháp luật tố tụng hình sự. Điều 21 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 (Bộ luật TTHS) quy định rõ nguyên tắc này: “Người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người phiên dịch, người dịch thuật, người giám định, người định giá tài sản, người chứng kiến không được tham gia tố tụng nếu có lý do cho rằng họ có thể không vô tư trong khi thực hiện nhiệm vụ.”. Để thực hiện nguyên tắc này, Điều 49, Điều 50 Bộ luật TTHS quy định những trường hợp phải thay đổi hoặc có quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng. Ngoài hai nhóm trường hợp được nêu tại khoản 1 và khoản 2, tại khoản 3 Điều 49 còn quy định người tiến hành tố tụng cũng phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi nếu “có căn cứ rõ ràng khác để cho rằng họ có thể không vô tư trong khi làm nhiệm vụ”.

Tiếp sau Điều 50, Bộ luật TTHS còn có các điều khoản cụ thể quy định về việc thay đổi Điều tra viên, Cán bộ Điều tra, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên, Thẩm phán hoặc Hội thẩm, thay đổi Thư ký phiên tòa nhằm bảo đảm nguyên tắc vô tư khách quan. 

Theo quy định của Điều 21 Bộ luật TTHS, đối với người tham gia tố tụng, yêu cầu vô tư chỉ được đặt ra đối với người phiên dịch, người giám định. Điều 67 và Điều 69, Điều 70 Bộ luật này quy định lần lượt những trường hợp người giám định, người phiên dịch, dịch thuật và người định giá tài sản phải từ chối tham gia tố tụng hoặc bị thay đổi để đảm bảo sự vô tư. Ngoài các quy định trên, vào tháng 10 năm 2004, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao còn có Nghị quyết số 03/2004/NQ-HĐTP về hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ nhất của Bộ luật TTHS năm 2003. Tại các điểm 4, 5, 6 của Nghị quyết, một số khái niệm, quy định tại các Điều 42, 45, 46 của Bộ luật liên quan đến vấn đề thay đổi người tiến hành tố tụng, đảm bảo nguyên tắc vô tư đã được giải thích, làm sáng tỏ thêm. 

2. Những nội dung cơ bản của nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của những người tiến hành tố tụng hoặc người tham gia tố tụng

Thứ nhất, sự vô tư của Thẩm phán, những người tiến hành tố tụng khác và người tham gia tố tụng được coi là nền tảng của tư pháp trong nhà nước pháp quyền, nó chi phối nguyên tắc độc lập xét xử với nghĩa vô tư là một trong những nội dung đặc biệt quan trọng của nguyên tắc độc lập xét xử. Nếu không có sự vô tư của những người tiến hành tố tụng thì nguyên tắc độc lập xét xử sẽ trở nên vô nghĩa thậm chí trong nhiều trường hợp nó còn gây hại cho tính khách quan của quá trình giải quyết vụ án do thẩm phán có thể áp đặt ý đồ chủ quan, không trong sáng vào các quyết định giải quyết vụ án của mình núp dưới bóng của nguyên tắc độc lập trong xét xử. Đồng thời, nguyên tắc bảo đảm sự vô tư còn quyết định đến mục đích khách quan công bằng của vụ án có được giải quyết hay không. Vì vậy, sự vô tư của những người tiến hành, người tham gia tố tụng được pháp luật TTHS các quốc gia cũng như trong các thiết chế tư pháp quốc tế quy định là nguyên tắc cơ bản làm định hướng cho quá trình xây dựng và áp dụng pháp luật TTHS. Trên cơ sở nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, pháp luật TTHS quy định các trường hợp phải từ chối hoặc buộc phải thay đổi tư cách người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng trong các giai đoạn của quá trình tố tụng cũng như thẩm quyền, thủ tục của việc thay đổi đó. Ngoài ra, pháp luật cũng quy định hệ quả của việc không tuân thủ nguyên tắc này như là căn cứ để đình chỉ vụ án hoặc là căn cứ để kháng cáo, kháng nghị đối bản án, quyết định của Tòa án. 

Thứ hai, đối tượng chịu sự điều chỉnh của nguyên tắc bảo đảm sự vô tư bao gồm hai loại: Những người tiến hành tố tụng và một số người tham gia tố tụng theo nghĩa vụ mà hoạt động của họ ảnh hưởng tới tính khách quan của quá trình giải quyết vụ án. Người tiến hành tố tụng hình sự ở tất cả các mô hình tố tụng hình sự thường bao gồm: Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Tòa án… Những người này là đối tượng chính chịu sự điều chỉnh của nguyên tắc bảo đảm sự vô tư do hoạt động và các phán quyết của họ đối với vụ án quyết định đến việc giải quyết vụ án có khách quan công bằng hay không. Thông thường ở mô hình tố tụng hình sự tranh tụng chỉ quy định thẩm phán là đối tượng chịu sự điều chỉnh của nguyên tắc này với lý do tất cả mọi hoạt động tố tụng đều diễn ra tại phiên tòa, có thể chấp nhận việc người đại diện cho các bên buộc tội và gỡ tội có thể không vô tư khi bảo vệ lợi ích của mình. Thẩm phán là trọng tài, người xác định và bảo vệ công lý nên sự vô tư của họ mới là yêu cầu bắt buộc trong việc xác định sự thật khách quan của vụ án. Pháp luật tố tụng hình sự phân chia người tham gia tố tụng hình sự thành hai loại: Người tham gia tố tụng có quyền và lợi ích liên quan đến vụ án và người tham gia tố tụng theo nghĩa vụ. Trong số này người tham gia tố tụng có quyền và lợi ích liên quan đến vụ án không thể và luật không đòi hòi sự vô tư của họ trong quá trình giải quyết vụ án. Nhưng đối với một số người tham gia tố tụng theo nghĩa vụ như người giám định, người phiên dịch thì đòi hỏi họ cần phải vô tư do các hoạt động của họ, góp phần xác định sự thật khách quan của vụ án, góp phần đến tính đúng đắn trong việc giải quyết vụ án của các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự. Chẳng hạn, người giám định khi giám định thương tích cho nạn nhân thì kết quả giám định của họ quyết định tới việc xác định có tội phạm hay không, nếu có tội thì mức độ chịu trách nhiệm hình sự của người phạm tội ở mức độ nặng hay nhẹ… Hoặc sự vô tư của người phiên dịch giúp các cơ quan tiến hành tố tụng hiểu chính xác về các tình tiết liên quan đến tội phạm và xác định trách nhiệm hình sự của người phạm tội một cách đúng đắn nhất. Vì vậy, không phải người tham gia tố tụng nào pháp luật cũng đòi hỏi sự vô tư của họ và nếu pháp luật có quy định thì cũng không có cơ sở bảo đảm để họ có thể vô tư do họ có mục đích bảo vệ lợi ích của mình khi tham gia vào quá trình giải quyết vụ án. 

Thứ ba, sự vô tư của những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng là đòi hỏi tất yếu của việc giải quyết vụ án hình sự khách quan, công bằng, là nền tảng của công lý pháp quyền. Vì vậy, pháp luật TTHS đưa ra tên nguyên tắc là: Bảo đảm sự vô tư với các nội dung nhằm mục đích phòng ngừa, ngăn chặn sự không vô tư của những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng. Tuy nhiên, sẽ là không đúng nếu cho rằng người tiến hành tố tụng ở vào một trong các trường hợp luật quy định phải từ chối hoặc bị thay đổi thì họ đều sẽ không vô tư trong quá trình giải quyết vụ án. Thực tế đã cho thấy rất nhiều người trong số họ rơi vào hoàn cảnh đó họ vẫn vô tư khi thi hành nhiệm vụ do họ phân định rõ ràng việc công và việc tư, không lợi dụng công vụ để để làm lợi cho việc tư, những người này xưa nay vẫn có. Nhưng bản chất đích thực của quy phạm này nằm ở chỗ pháp luật muốn phòng ngừa, ngăn chặn những khả năng dẫn đến sự không vô tư của người tiến hành tố tụng thay vì khắc phục và trừng trị đối với sự không vô tư của họ trong quá trình giải quyết vụ án. Quy định này cũng xuất phát từ yêu cầu cao trong việc xác định và bảo vệ công lý của các cơ quan tư pháp và chính điều này đã góp phần làm nên sự khác biệt của quyền tư pháp với các nhánh quyền lập pháp và hành pháp. Hậu quả có thể xảy ra khi không tuân thủ nguyên tắc này được thể hiện ở việc những quyết định do người tiến hành tố tụng ban hành không vô tư sẽ bị đình chỉ hoặc hủy bỏ, hiệu lực vụ án hoặc quyết định tố tụng phải được tiến hành lại. Nếu bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án mới phát hiện ra sự vi phạm này thì phải được kháng nghị theo trình tự giám đốc thẩm. Pháp luật tố tụng hình sự coi việc vi phạm nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của những người tiến hành tố tụng hoặc người tham gia tố tụng là một trong những vi phạm pháp luật nghiêm trọng và là căn cứ để kháng nghị giám đốc thẩm.

3. Yêu cầu vô tư trong mối liên hệ, phân biệt với các yêu cầu khác

Nguyên tắc bảo đảm sự độc lập và nguyên tắc bảo đảm sự vô tư trong hoạt động tư pháp là hai nguyên tắc có nội hàm gần gũi, gắn bó mật thiết. Thực tế, trong hầu hết các văn bản pháp luật quốc gia cũng như quốc tế, nguyên tắc đảm bảo sự vô tư và nguyên tắc đảm bảo sự độc lập của tư pháp thường được quy định đi liền nhau. Yêu cầu bảo đảm sự vô tư có nội hàm rộng hơn yêu cầu không được thiên vị. Để không có sự thiên vị, chắc chắn người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng phải có sự vô tư. Ngược trở lại, ngay cả khi không có sự thiên vị cho bên này hay bên kia của vụ việc thì người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng vẫn có thể hành xử thiếu sự vô tư. Ví dụ rõ nét nhất trong trường hợp này là việc người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng đã có những định kiến, thiên kiến về những vấn đề pháp lý được đặt ra trong vụ việc, hoặc họ đã từng tham gia vụ việc với những tư cách khác nhau trước đó. Trong trường hợp này, mặc dù hành xử của họ không nhằm thiên vị bên này hay bên kia của vụ việc, nhưng thực tế thì sự vô tư của họ đã không được đảm bảo.

4. Ý nghĩa, vai trò của nguyên tắc

4.1. Yêu cầu thiết yếu của công lý

Nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng là một yêu cầu thiết yếu để có một phiên tòa công bằng. Sự vô tư đòi hỏi những người này đều phải hành xử một cách khách quan, đặt các quyết định và hành xử của họ trên cơ sở các sự kiện khách quan và phù hợp với quy định của pháp luật mà không được phép có những định kiến hoặc thiên vị cá nhân về nội dung vụ việc hoặc về những cá nhân có liên quan trong vụ việc, cũng như không được thúc đẩy lợi ích bất kỳ một bên nào trong số các bên.

Nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng được coi yêu cầu thiết yếu để có được tính chính xác, khách quan của hoạt động tố tụng hình sự. Sự vô tư của người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch là một yêu cầu không thể thiếu để có thể xác định sự thật khách quan của vụ án, xử lý nghiêm minh mọi hành vi phạm tội nhưng đồng thời không làm oan người vô tội. 

4.2. Đòi hỏi của quyền con người

Nguyên tắc đảm bảo sự độc lập và vô tư của tư pháp nói chung và của Tòa án nói riêng được ghi nhận trong hầu hết các văn kiện quốc tế quan trọng về quyền con người. Tại Việt Nam, các học giả, nghiên cứu cũng thống nhất thừa nhận việc quy định nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng là người phiên dịch, người giám định là một trong những biểu hiện của việc bảo vệ quyền con người trong lĩnh vực tư pháp hình sự .

4.3. Điều kiện để tạo dựng niềm tin của cộng đồng vào hoạt động tư pháp

Sự vô tư của người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch không chỉ nhằm bảo đảm cho hoạt động tố tụng được thực hiện một cách khách quan, công bằng, xử lý đúng người, đúng tội và tuân theo pháp luật. Xa hơn, yêu cầu này còn đảm bảo rằng hoạt động tố tụng hình sự nói chung, đặc biệt là hoạt động xét xử của Tòa án nói riêng sẽ nhận được sự tin tưởng, niềm tin của những người tham gia tố tụng là bị can, bị cáo, nguyên đơn, bị đơn dân sự, người có quyền lợi liên quan trong vụ án hay đại diện hợp pháp của họ, cũng như của cả cộng đồng xã hội nói chung.

4.4. Yêu cầu tất yếu của nhà nước pháp quyền

Việc bảo đảm một nền tư pháp độc lập, vô tư như vậy không những đảm bảo sự phân chia, kiểm soát quyền lực giữa quyền tư pháp với quyền lập pháp và hành pháp mà còn đảm bảo có được một nền tư pháp công minh, không phân biệt đối xử, tuân thủ tính thượng tôn của pháp luật, bảo vệ được các quyền và tự do chính đáng của con người. Sự vô tư của tư pháp, hay cụ thể hơn là của những người tiến hành tố tụng (đặc biệt là Thẩm phán) và những người tham gia tố tụng là người phiên dịch, người giám định không chỉ thể hiện ở việc thực tế họ phải không có định kiến, thiên kiến hay thiên vị gây lợi hay bất lợi cho bên này hay bên kia của vụ việc. Quan trọng không kém là trong việc thực hiện chức năng của mình, họ phải có những đảm bảo khách quan, có những biểu hiện khách quan để chứng tỏ sự vô tư đó, loại bỏ tất cả những nghi ngờ có căn cứ về sự vô tư của họ. Sự vô tư của tư pháp là điều kiện cơ bản, tiên quyết để có một quy trình tố tụng công minh, chính xác, đúng người đúng tội, đúng pháp luật. Hơn nữa, sự vô tư và những biểu hiện vô tư của tư pháp cũng là một yếu tố nền tảng để tạo dựng, củng cố niềm tin của những người tham gia tố tụng là bị can, bị cáo, người bị hại, người có quyền và nghĩa vụ có liên quan…,cũng như của cả cộng đồng xã hội nói chung vào hoạt động của hệ thống các cơ quan tư pháp nói riêng và của bộ máy công quyền nói chung.

Đảm bảo sự vô tư của tư pháp chính là một yêu cầu quan trọng của quyền của mỗi cá nhân có quyền được xét xử một cách công bằng. Từ những nội dung trên, có thể thấy yêu cầu đảm bảo sự vô tư của hoạt động tư pháp, kết hợp với những yêu cầu khác, như đảm bảo sự độc lập, khách quan của tư pháp là những yêu cầu không thể tách rời, mang tính thiết yếu của một nhà nước pháp quyền. 

ĐẶNG ĐÌNH THÁI

Tòa án quân sự khu vực Quân khu 4

Một số quy định cần hoàn thiện nhằm thúc đẩy thị trường quyền sử dụng đất