Các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội “Làm nhục người khác”
Tội "Làm nhục người khác" được quy định tại Điều 155 trong BLHS.
Về mặt chủ thể: Chủ thể của tội làm nhục người khác là chủ thể thường, người từ đủ 16 tuổi trở lên và không thuộc tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự (TNHS). Chủ thể của tội làm nhục người khác có thể là người có mối quan hệ mâu thuẫn, hiềm khích hoặc thù hận đối với nạn nhân nên mong muốn thực hiện hành vi xúc phạm danh dự, nhân phẩm người khác.
Về mặt khách thể: Khách thể của tội phạm này được xác định là danh dự, nhân phẩm của con người.
Về mặt chủ quan: Người thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý. Người phạm tội biết hành vi của mình là xúc phạm danh dự, nhân phẩm người khác nhưng đã thực hiện hành vi để đạt được mục đích đó.
Về mặt khác quan: Hành vi khách quan của tội làm nhục người khác là hành vi xúc phạm nghiêm trọng đến nhân phẩm, danh dự của người khác. Những hình thức biểu hiện của hành vi này rất đa dạng, có thể là những lời nói có tính chất thóa mạ, miệt thị, sỉ nhục, hạ thấp danh dự, nhân phẩm như chửi bới, nhạo báng một cách thô bỉ, tục tĩu… với tính chất hạ thấp nhân cách, danh dự nạn nhân, đồng thời làm cho nạn nhân cảm thấy nhục nhã trước nhiều người. Hoặc có thể là những cử chỉ, hành vi (có hoặc không kèm lời nói xúc phạm) có tính chất bỉ ổi để bêu rếu nạn nhân. Ví dụ: Lột quần áo nạn nhân, nhổ nước bọt, bắt nạn nhân quỳ gối van xin, ném chất bẩn, tạt nước bẩn, chứng thối vào người nạn nhân…
Ngoài ra, để làm nhục người khác, người phạm tội có thể có những hành vi dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực bắt trói, đấm đá hoặc dùng phương tiện nguy hiểm khống chế, đe dọa, buộc nạn nhân phải làm theo ý muốn của mình. Những hành vi này thường được thực hiện công khai trước mặt họ, trước đám đông để khiến nạn nhân bị tổn thương, cảm thấy nhục nhã hoặc có thể thông qua người khác hoặc các phương tiện, thủ đoạn, hình thức khác nhau để đến nạn nhân như: phương tiện điện tử, mạng máy tính, mạng viễn thông…
Tuy nhiên, không phải mọi hành vi xúc phạm danh dự, nhân phẩm người khác đều bị truy tố về tội danh này. Chỉ hành vi xâm phạm “nghiêm trọng” nhân phẩm, danh sự thì sẽ bị truy cứu TNHS còn đối với các trường hợp xúc phạm nhân phẩm, danh dự người khác bình thường thì người thực hiện hành vi đó bị xử phạt hành chính căn cứ theo khoản 3 Điều 7 Nghị định 144/2021/NĐ-CP quy định về các hành vi, vi phạm quy định về trật tự công cộng như sau:
“3. Phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:
a) Có hành vi khiêu khích, trêu ghẹo, xúc phạm, lăng mạ, bôi nhọ danh dự, nhân phẩm của người khác, trừ trường hợp quy định tại điểm b khoản 2 Điều 21 và Điều 54 Nghị định này;
b) Tổ chức, thuê, xúi giục, lôi kéo, dụ dỗ, kích động người khác cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác hoặc xâm phạm danh dự, nhân phẩm của người khác nhưng không bị truy cứu trách nhiệm hình sự;
c) Báo thông tin giả, không đúng sự thật đến các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền;
d) Gọi điện thoại đến số điện thoại khẩn cấp 111, 113, 114, 115 hoặc đường dây nóng của cơ quan, tổ chức để quấy rối, đe dọa, xúc phạm;
đ) Sản xuất, tàng trữ, vận chuyển “đèn trời”;...”.
Hoặc sẽ bị xử phạt hành chính theo quy định của pháp luật liên quan đến an ninh mạng, mức phạt cụ thể sẽ tùy thuộc vào hành vi vi phạm.
Tội "Làm nhục người khác" là tội có cấu thành tội phạm hình thức. Tội phạm được coi là hoàn thành từ khi người phạm tội có lời nói hoặc hành động xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác. Hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm của tội này.

Ảnh minh họa.
Những khó khăn, vướng mắc trong việc xử lý tội "Làm nhục người khác"
Một là, hạn chế trong việc xác định hành vi phạm tội.
Dấu hiệu “nghiêm trọng” trong tội "Làm nhục người khác" không được quy định rõ trong BLHS và hiện nay chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể về tội phạm này dẫn đến khó khăn trong thực tiễn xử lý tội này. Thông tư liên tịch số 01/2003/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP-BQP ngày 11/8/2003 của TANDTC, VKSNDTC, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng quy định hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XXIII "Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân" của BLHS 1999. Trong đó hướng dẫn các tội "Làm nhục, hành hung người chỉ huy hoặc cấp trên" (Điều 319 BLHS); tội "Làm nhục hoặc dùng nhục hình đối với cấp dưới" (Điều 320 BLHS); tội "Làm nhục, hành hung đồng đội" (Điều 321 BLHS). Theo đó, tại điểm b mục 2 phần III Thông tư liên tịch này có hướng dẫn một số trường hợp hành vi xúc phạm, nhân phẩm, danh dự bị coi là nghiêm trọng, như: Hành vi xúc phạm thường xuyên, kéo dài; được người khác can ngăn nhưng không đình chỉ việc xúc phạm; nhiều người xúc phạm một người; xúc phạm nhiều người; xúc phạm có gây tổn hại cho sức khỏe hoặc để lại hậu quả xấu, ảnh hưởng đến uy tín, danh dự của người bị xúc phạm; xúc phạm bằng các hình thức đê tiện, bỉ ổi thể hiện sự coi thường quá đáng nhân phẩm, danh dự của người bị hại.
Như vậy, vấn đề hiểu thế nào là xúc phạm “nghiêm trọng” thì pháp luật vẫn chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể, nhưng căn cứ vào thái độ, nhận thức của người phạm tội, cường độ, thời gian kéo dài của hành vi xúc phạm, vị trí, vai trò của người bị hại trong xã hội, sự ảnh hưởng tác động về tâm lý với người bị hại, môi trường xung quanh.
Thực tế, các vụ án được đưa ra xét xử Tòa án thường cho rằng hành vi xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự nạn nhân đó là hành vi cố ý hạ thấp nhân phẩm, danh dự hoặc làm mất nhân cách, uy tín của người đó đối với người thân trong gia đình, bạn bè, cơ quan, đoàn thể nơi họ sinh sống hoặc nơi công cộng khác. Hành vi xúc phạm nhân phẩm, danh sự này được thực hiện bằng lời nói chửi rủa, lăng mạ ở nơi đông người hoặc in ảnh, viết chữ xúc phạm rồi phát tán ra cộng đồng hoặc qua mạng xã hội…
Tuy nhiên, vẫn chưa thể xác định được sự xúc phạm nhân phẩm, danh sự người khác phải đến mức độ nào là “nghiêm trọng”, mới có thể truy cứu TNHS. Dẫn tới khi xử lý hành vi làm nhục người khác phụ thuộc vào ý chí chủ quan của người thẩm phán, bởi trong trường hợp hành vi phạm tội chưa rõ ràng, hậu quả chưa nghiêm trọng, có dấu hiệu tương đồng với vi phạm hành chính thì nhiều vụ việc cùng một hành vi bị xâm hại nhưng mỗi Tòa án lại đưa ra một kết luận khác nhau. Do ranh giới phân biệt giữa vi phạm hành chính và bị truy cứu TNHS chưa được rõ ràng, minh bạch, trong khi việc xác định này hết sức quan trọng, dẫn đến trách nhiệm của người vi phạm là khác nhau.
Hai là, hình phạt chưa tương xứng với mức độ nghiêm trọng của hành vi.
Mức hình phạt cao nhất của tội làm nhục người khác là 05 năm tù, đây là mức hình phạt tương đối thấp không dự đoán hết được tính nguy hiểm của tội phạm này. Mặc dù so với BLHS năm 1999 thì BLHS năm 2015 đã nâng cao mức hình phạt của tội phạm này (tối đa từ 03 năm tù lên 05 năm tù) nhưng so với mức độ nghiêm trọng ngày càng nâng cao của hành vi phạm tội, mức độ ảnh hưởng lớn mà người bị hại phải chịu, thậm chí dẫn tới hậu quả khiến người đó tự sát thì việc quy định mức hình phạt như vậy vẫn nhẹ, chưa đủ răn đe cho người phạm tội.
Ba là, thiếu sót trong quy định của điều luật trong BLHS.
Điều 155 BLHS chưa quy định TNHS trường hợp gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ trên 60% đến dưới 61%.
Điều 155 BLHS chưa quy định TNHS đối với hành vi thuê người làm nhục người khác hoặc hành vi làm nhục người khác do được thuê. Xuất phát từ đấu tranh phòng chống tội phạm, việc kiếm lợi bất chính bằng việc thực hiện hành vi phạm tội (do được thuê) hoặc dùng tiền để thuê, xúi giục, mua chuộc… người khác thực hiện hành vi phạm tội đều được coi là những đồng phạm nguy hiểm tại các tội phạm xâm phạm về tính mạng, sức khỏe của người khác như: Tội "Giết người", điểm m khoản 1 Điều 123 BLHS; tội "Cố ý gây thương tích", điểm h khoản 1 Điều 134 BLHS.
Một số kiến nghị, giải pháp
Thứ nhất, cần có quy định hướng dẫn thế nào là hành vi xúc phạm “nghiêm trọng” đến nhân phẩm, danh dự của người khác. Để dễ phân biệt người có hành vi phạm nhưng chưa đến mức xử lý hình sự, cần bổ sung thêm điều kiện “đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này chưa được xóa án tích mà còn vi phạm” từ đó, có căn cứ áp dụng pháp luật chặt chẽ hơn.
Thứ hai, cần xem xét bỏ cụm từ “nghiêm trọng” trong nội dung khoản 1 Điều 155 BLHS. Do đây là tội có cấu thành tội phạm hình thức nếu quy định như trên sẽ dẫn đến hiểu lầm đây là hậu quả của tội phạm. Hơn nữa, tội "Làm nhục người khác" có hậu quả là thiệt hại về tinh thần nên rất khó chứng minh tính chất “nghiêm trọng”. Do đó, tác giả đề nghị bỏ cụm từ “nghiêm trọng”, dấu hiệu này sẽ được cụ thể hóa bằng những hành vi cụ thể, chẳng hạn có lời lẽ, hành động mang tính miệt thị, xúc phạm tại nơi công cộng, nơi đông người với mục đích hạ thấp uy tín, danh dự nhân phẩm người đó.
Thứ ba, dề nghị thay tỷ lệ “61%” bằng tỷ lệ “từ trên 60 %” ở điểm a khoản 3 Điều 155 BLHS.
Thứ tư, cần bổ sung tình tiết tăng nặng định khung hình phạt đối với “hành vi thuê người làm nhục người khác hoặc hành vi làm nhục người khác do được thuê” vào khoản 2 Điều 155 BLHS.
Sau khi sửa đổi, Điều 155 BLHS được viết lại như sau:
Điều 155. Tội làm nhục người khác
1. Người nào xúc phạm nhân phẩm, danh dự của người khác, mà đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm:
a) Phạm tội 02 lần trở lên;
b) Đối với 02 người trở lên;
c) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
d) Đối với người đang thi hành công vụ;
đ) Đối với người dạy dỗ, nuôi dưỡng, chăm sóc, chữa bệnh cho mình;
e) Sử dụng mạng máy tính hoặc mạng viễn thông, phương tiện điện tử để phạm tội;
g) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;
h) Thuê người làm nhục người khác hoặc làm nhục người khác do được thuê.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 05 năm:
a) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ trên 60%;
b) Làm nạn nhân tự sát.
4. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.