/ Phân tích - Nghiên cứu
/ Bài cuối: Cử tri và Nhân dân đồng hành cùng Quốc hội và Hội đồng nhân dân
Nhân dân đồng hành cùng Quốc hội và Hội đồng nhân dân:

Bài cuối: Cử tri và Nhân dân đồng hành cùng Quốc hội và Hội đồng nhân dân

06/11/2024 06:22 |

(LSVN) - Mối quan hệ gắn bó “máu - thịt” giữa Quốc hội và Hội đồng nhân dân với cử tri và Nhân dân ở đây là mối quan hệ có tính chất biện chứng. Trong đó, tất cả mọi hoạt động của Quốc hội và Hội đồng nhân dân đều phải xuất phát từ lợi ích của quốc gia, dân tộc, vì lợi ích của đại đa số Nhân dân. Ngược lại, cử tri và Nhân dân cũng cần thể hiện tinh thần, trách nhiệm cao trong việc đóng góp ý kiến, hỗ trợ góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong từng giai đoạn.

Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước [1]. Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên. Do đều nằm trong hệ thống các cơ quan dân cử nên hoạt động của Quốc hội và Hội đông nhân dân thể hiện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân. Để đạt được các mục tiêu, yêu cầu đề ra, trong quá trình hoạt động của mình, Quốc hội và Hội đồng nhân dân phải luôn chú trọng xây dựng, củng cố và phát triển mối quan hệ gắn bó “máu - thịt” với cử tri và Nhân dân.

Ảnh minh hoạ. Nguồn: TTXVN.

Ảnh minh hoạ. Nguồn: TTXVN. 

Mối quan hệ gắn bó “máu - thịt” giữa Quốc hội và Hội đồng nhân dân với cử tri và Nhân dân ở đây là mối quan hệ có tính chất biện chứng. Trong đó, tất cả mọi hoạt động của Quốc hội và Hội đồng nhân dân đều phải xuất phát từ lợi ích của quốc gia, dân tộc, vì lợi ích của đại đa số Nhân dân. Ngược lại, cử tri và Nhân dân cũng cần thể hiện tinh thần, trách nhiệm cao trong việc đóng góp ý kiến, hỗ trợ góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong từng giai đoạn. Điều này phản ánh sự đồng hành và luôn sát cánh của cử tri, Nhân dân đối với hoạt động của Quốc hội và Hội đồng nhân dân. Những năm qua, sự đồng hành của cử tri và Nhân dân cả nước đối với hoạt động của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp thể hiện rõ nét trên các phương diện sau:

Thứ nhất, cử tri chính là những người bầu ra đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân - là những nhân tố then chốt, cốt lõi để hình thành và thực hiện những chức năng, nhiệm vụ của Quốc hội và Hội đồng nhân dân. Thông qua phiếu bầu và tinh thần, trách nhiệm trong các đợt bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân, cử tri đã lựa chọn ra những cá nhân ưu tú tham gia cơ quan quyền lực nhà nước ở Trung ương và địa phương. Những năm qua, chất lượng và hiệu quả hoạt động của Quốc hội và Hội đồng nhân dân được nâng lên rõ rệt chính là nhờ chất lượng đội ngũ đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân được cử tri cả nước bầu ra cũng ngày càng nâng cao hơn, từng bước đáp ứng yêu cầu công tác hiện nay.

Thứ hai, cử tri và Nhân dân phản ánh những vấn đề phát sinh trong thực tiễn cuộc sống đến Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp để tập trung thảo luận, giải quyết và kiến nghị giải quyết. Thông qua hoạt động tiếp công dân, tiếp xúc cư tri của Quốc hội và Hội đồng nhân dân cũng như của đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp đã thu nhận nhiều phản ánh và kiến nghị của cử tri và Nhân dân cả nước. Các vấn đề phản ánh và kiến nghị đó đều là những vấn đề quan trọng ảnh hưởng đến đời sống của Nhân dân ở các địa phương, những hạn chế, bất cập, khó khăn, vướng mắc phát sinh trong thực tiễn.

Thứ ba, cử tri và Nhân dân tham gia góp ý kiến đối với các chương trình, kế hoạch hoạt động cụ thể của Quốc hội và Hội đồng nhân dân, nhất là trong công tác xây dựng pháp luật và quyết định các vấn đề hệ trọng của đất nước trong từng giai đoạn. Điều này được thực hiện thông qua các cơ chế mà Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp triển khai nhằm thu nhận ý kiến tham gia góp ý của đông đảo cử tri và Nhân dân đối với các vấn đề cụ thể trong quá trình hoạt động của mình. Những ý kiến của cử tri và Nhân dân là kênh tham khảo không thể thiếu và đặc biệt quan trọng để Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp quyết định các vấn đề cụ thể.

Thứ tư, cử tri và Nhân dân cả nước tham gia giám sát các hoạt động của Quốc hội và Hội đồng nhân dân. Điều này được thực hiện xuyên suốt quá trình hoạt động của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp và trong mỗi chương trình, kế hoạch cụ thể, qua đó góp phần nâng cao tính công khai, minh bạch hoạt động của các cơ quan này. Trong quá trình giám sát các hoạt động của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp, cử tri và Nhân dân đã kịp thời góp ý những nội dung để Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp điều chỉnh, khắc phục nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của mình.

Thứ năm, cử tri và Nhân dân là “gương soi chiếu” để Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp tự kiểm điểm, đánh giá chất lượng, hiệu quả triển khai các hoạt động của mình. Đó chính là sự tín nhiệm và niềm tin của quần chúng nhân dân đối với Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp. Điều này được hình thành qua quá trình triển khai các nghị quyết, chương trình, kế hoạch của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp, thông qua sự thể hiện về tinh thần, trách nhiệm trước Nhân dân, trước những vấn đề quan trọng của đất nước và địa phương ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống Nhân dân, trước những phản ánh và kiến nghị của cử tri và Nhân dân và đặc biệt là thông qua chất lượng, hiệu quả thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình. Bởi lẽ, suy cho cùng tinh thần trách nhiệm cao mới chỉ là yếu tố tiền đề để Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, các cơ quan, bộ phận trực thuộc và các đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân tích cực, tập trung và quyết tâm trong việc tiến hành các hoạt động cụ thể còn chất lượng, hiệu quả đạt được mới thực sự tạo ra sự lan tỏa trong thực tiễn quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước được bền vững, quốc phòng, an ninh được giữ vững, đối ngoại được tăng cường và mở rộng, đời sống vật chất và tinh thần cuả người dân ngày càng được nâng cao sẽ phản ánh thực chất nhất chất lượng, hiệu quả hoạt động của các cơ quan nhà nước nói chung trong đó có Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp.

Qua phân tích ở trên có thể thấy, trong hoạt động của Quốc hội và Hội đồng nhân dân những năm qua luôn có sự đồng hành, sát cánh của cử tri và Nhân dân cả nước. Điều đó đã góp phần tạo ra những chuyển biến vô cùng mạnh mẽ trong tổ chức và hoạt động thể hiện thông qua một số kết quả nổi bật đạt được của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp những năm qua. Điển hình: Chỉ trong nửa đầu nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV, với tinh thần “lập pháp chủ động”, “lập pháp kiến tạo”, Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã ban hành 1010 văn bản (23 luật, 101 nghị quyết của Quốc hội, 04 pháp lệnh và 882 nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội) [2], hoàn thành 114/137 nhiệm vụ nghiên cứu lập pháp (chiếm 83,21%). Trong đó, Quốc hội đã lần đầu tiên tổ chức các phiên họp bất thường thông qua các luật, nghị quyết nhằm đáp ứng yêu cầu phòng, chống dịch Covid-19 cũng như nhu cầu phục hồi nền kinh tế và bảo đảm an sinh xã hội sau đại dịch.

Trong quyết sách những vấn đề quan trọng về kinh tế - xã hội, Quốc hội đã ban hành nhiều nghị quyết thí điểm áp dụng cơ chế, chính sách đặc thù đối với một số địa phương như: Hải Phòng, Thanh Hóa, Nghệ An, Thừa Thiên Huế, Khánh Hòa, Đắk Lắk, Thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ. Công tác giám sát của Quốc hội cũng đã được nâng cao thêm một bước với việc thông qua Đề án và ban hành Kết luận số 843-KL/ĐĐQH15, ngày 03/8/2022 để tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội cũng như ban hành 15 nghị quyết về giám sát chuyên đề và chất vấn. Qua thống kê trong hai năm đầu nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV đã có 923 lượt đại biểu tham gia chất vấn, đồng thời tổng số kiến nghị của cử tri gửi đến Quốc hội là 2.765, trong đó đã giải quyết và trả lời được 2.751/2.765 kiến nghị, đạt 99,5% [3].

Hoạt động đối ngoại cả song phương và đa phương của Quốc hội đã có những bước chuyển biến đáng kể và qua các cơ chế nghị sĩ hữu nghị (thành lập được 45 nhóm nghị sĩ hữu nghị với nghị viện của các nước); đã có nhiều sáng kiến, đóng góp quan trọng trong khuôn khổ diễn đàn của Liên minh Nghị viên thế giới (IPU), Diễn đàn Nghị viện châu Á - Thái Bình Dương, Hội đồng liên nghị viện các nước Asean.

Cùng với đó, hoạt động của Hội đồng nhân dân các cấp cũng đã tích cực được đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả, thể hiện trách nhiệm ngày càng cao trước cử tri và Nhân dân ở các địa phương. Hội đồng nhân dân đã chủ động hơn trong việc ban hành nghị quyết về chương trình xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật cho cả nhiệm kỳ nhằm góp phần hoàn thiện thể chế phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Số lượng Nghị quyết mà Hội đồng nhân dân các cấp ban hành có chiều hướng gia tăng qua các năm, qua đó kịp thời thể chế hóa các chủ trương, đường lối của Đảng cũng như các chủ trương của Quốc hội, Chính phủ, tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho việc thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội và các vấn đề khác có liên quan. Công tác chuẩn bị và tổ chức các kỳ họp, công tác thẩm tra, xem xét, quyết định những vấn đề quan trọng của địa phương đã được Hội đồng nhân dân các cấp thực hiện nghiêm túc; tập trung tháo gỡ những vướng mắc về thể chế, chính sách nhằm khơi thông các nguồn lực của các địa phương phục vụ có hiệu quả triển khai các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế, văn hóa, giáo dục, y tế, phòng, chống thiên tai, dịch bệnh, bảo đảm an sinh xã hội, xóa đói, giảm nghèo bền vững, không ngừng nâng cao đời sống của Nhân dân.

Hội đồng nhân dân các cấp và đại biểu Hội đồng nhân dân đã tăng cường các hình thức tiếp xúc cử tri để lắng nghe ý kiến của cử tri và Nhân dân; tiếp và giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân; giải quyết kiến nghị của cử tri và Nhân dân; đưa vào diện giám sát những vấn đề cấp thiết, quan trọng được cử tri và Nhân dân quan tâm như: Quản lý đất đai, trật tự đô thị; cải cách thủ tục hành chính; vấn đề môi trường; đầu tư công và quản lý tài sản công... Nếu trước đây hoạt động giám sát chủ yếu tập trung vào giám sát chuyên đề và chất vấn tại các kỳ họp thì hiện nay đã đa dạng hơn theo hướng chú trọng tiến hành hoạt động chất vấn, giải trình của Thường trực Hội đồng nhân dân giữa các kỳ họp và tăng cường hoạt động giám sát của các tổ đại biểu và của đại biểu Hội đồng nhân dân. Việc tái giám sát cũng được Hội đồng nhân dân các cấp chú trọng hơn nhằm quyết tâm giải quyết triệt để các vấn đề giám sát.

Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy các hoạt động đồng hành của cử tri và Nhân dân cả nước với Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp những năm qua còn bộc lộ những hạn chế, thiếu xót như: Chất lượng tham gia góp ý, giám sát của cử tri, Nhân dân đối với hoạt động của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp ở một số địa phương, địa bàn còn chưa cao, mang tính hình thức, chưa đi sâu vào bản chất vấn đề, chưa tương xứng với yêu cầu thực tiễn tình hình; một bộ phận cử tri và quần chúng nhân dân chưa thực sự nhận thức đầy đủ và thể hiện tinh thần, trách nhiệm cao trong việc tham gia và giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước nói chung và của Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp nói riêng; trình độ dân trí của một bộ phận Nhân dân, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, khu vực biên giới, vùng đồng bào dân tộc thiểu số chưa cao, trong đó có kỹ năng tham gia góp ý, giám sát các hoạt động của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp; hoạt động tiếp xúc cử tri, cơ chế tạo điều kiện cho cử tri và Nhân dân tham gia góp ý, giám sát các hoạt động của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp ở một số địa phương, nhất là ở cấp cơ sở chưa được thường xuyên thực hiện và mở rộng…

Thời gian tới, bối cảnh quốc tế và khu vực đang có những diễn biến phức tạp, khó lường, trong đó có cả các yếu tố bất ổn tác động trực tiếp đến nước ta. Đó chính là sự cạnh tranh ảnh hưởng của các nước lớn; tình hình chiến tranh, xung đột đang xảy ra ở nhiều khu vực trên thế giới (Chiến tranh giữa Nga - Ucraina, xung đột giữa Israel với Iran, lực lượng Hamas, Hezbollah; tình hình suy thoái kinh tế sau đại dịch Covid-19 và trong bối cảnh tác động của các cuộc chiến tranh, xung đột… Nhiệm vụ đặt ra cho Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp với vai trò là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân và cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất ở Trung ương và ở địa phương chắc chắn sẽ gặp phải những khó khăn, thách thức. Xuất phát từ thực tiễn những năm qua và yêu cầu đặt ra hiện nay và thời gian tới, để mối quan hệ giữa Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp ngày càng gắn bó chặt chẽ hơn nữa, sự đồng hành của cử tri và Nhân dân cả nước với Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp ngày càng hiệu quả hơn thời gian tới nên tập trung thực hiện đồng bộ giải pháp sau đây:

Một là, đẩy mạnh và thường xuyên tiến hành công tác tuyên truyền, giáo dục nhằm nâng cao nhận thức và trách nhiệm của đông đảo quần chúng nhân dân, nhất là đồng bào các dân tộc thiểu số ở vùng sâu, vùng xa đối với công cuộc xây dựng và phát triển đất nước hiện nay cũng như đối với hoạt động của các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội nói chung và hoạt động của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp nói riêng. Cần đổi mới cả nội dung và hình thức tiến hành công tác tuyên truyền, giáo dục để phù hợp với đặc điểm địa bàn, dân cư ở từng vùng miền, địa phương, đồng thời phát huy hơn nữa vai trò của các cơ quan thông tin đại chúng ở cả Trung ương và các địa phương, tăng cường tuyên truyền, giáo dục trên không gian mạng. Bên cạnh đó, Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp cần chú trọng lồng ghép các nội dung tuyên truyền, giáo dục và bồi dưỡng nâng cao kỹ năng cho cử tri và Nhân dân tham gia góp ý các hoạt động của mình thông qua các buổi họp được truyền hình trực tiếp, các buổi tiếp xúc cử trư, công tác tiếp công dân…

Hai là, các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội nói chung và Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp nói riêng cần thường xuyên thông tin để cử tri và Nhân dân cả nước nắm được tình hình thời sự quốc tế và khu vực có tác động ảnh hưởng đến Việt Nam; về tình hình phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội, tình hình quốc phòng, an ninh và đối ngoại của đất nước, nhất là những thành tựu đạt được cũng như những khó khăn, thách thức của Việt Nam trên bước đường xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện nay. Đối với Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp cần thông tin kịp thời các nội dung liên quan đến những chương trình, kế hoạch, chủ trương lớn đề ra trong từng giai đoạn cũng như những vấn đề nóng được dư luận quần chúng nhân dân quan tâm và quá trình giải quyết những kiến nghị, phản ánh của cử tri và Nhân dân. Khi được thông tin đầy đủ, chính xác và kịp thời những nội dung nêu trên sẽ là điều kiện quan trọng để cử tri và Nhân dân cả nước hiểu rõ, hiểu đầy đủ và tham gia góp ý kiến, hỗ trợ, đồng hành cùng Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp.

Ba là, Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp phải luôn duy trì mối liên hệ mật thiết với cử tri và Nhân dân nhằm thường xuyên lắng nghe, tiếp thu ý kiến phản ánh và nguyện vọng, đồng thời tiếp tục nghiên cứu để mở rộng hơn nữa cơ chế tạo điều kiện, khuyến khích cử tri và Nhân dân tham gia, giám sát hoạt động của các cơ quan. Cần đa dạng hơn nữa các hình thức tiếp xúc cử tri; mở rộng hơn nữa các kênh thu thập ý kiến, phản ánh từ Nhân dân; tiếp và giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân cũng như tiếp nhận và giải quyết kiến nghị của cử tri, Nhân dân nhằm tiếp thu, lắng nghe ý kiến phản ánh, góp ý của cử tri và Nhân dân, đặc biệt phải kịp thời giải quyết hoặc đôn đốc các cơ quan chức năng giải quyết dứt điểm các kiến nghị của cử tri và Nhân dân. Phát huy những kết quả đạt được trong những năm qua, cần nhân rộng và tiến hành thường xuyên hơn nữa các hoạt động đã được triển khai mà qua đó tạo điều kiện cho cử tri và Nhân dân tham gia cũng như tham gia giám sát các hoạt động của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp như: Hoạt động truyền hình trực tiếp các phiên họp; hoạt động lấy ý kiến của Nhân dân đối với các dự án luật; hoạt động tiếp xúc cử tri theo chuyên đề, tiếp xúc cử tri nơi công tác và nơi cư trú…

Bốn là, Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp phải quán triệt sâu sắc bài học “Lấy dân làm gốc”, lắng nghe dân nói trong mọi hoạt động của mình. Bởi vì, “Lấy dân làm gốc” là bài học vô cùng quý báu đã được kiểm nghiệm trong lịch sử mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, là yếu tố quan trọng, căn cốt nhất để quy tụ và hình thành nên sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc. Sinh thời chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định: “Không có lực lượng Nhân dân thì việc nhỏ mấy, dễ mấy, làm cũng không xong; có lực lượng Nhân dân, thì việc khó mấy, to mấy cũng làm được”[4]. Bài học “Lấy dân làm gốc” là bài học xuyên suốt quá trình cách mạng và phải được mọi cơ quan, tổ chức, cán bộ, đảng viên nghiêm túc quán triệt và nhận thức đầy đủ trong ý chí và hành động thực tiễn của mình và đối với Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp đều nằm trong hệ thống các cơ quan dân cử lại càng không phải là ngoại lệ và càng cần phải được thấm nhuần sâu sắc hơn nữ lời Bác căn dặn. Trong tất cả mọi hoạt động của mình, Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp phải luôn hướng đến mục tiêu vì lợi ích của cử tri và Nhân dân, vì lợi ích của quốc gia, dân tộc thì mới nhận được sự đồng hành và giúp đỡ của cử tri và Nhân dân cả nước, vượt mọi thác ghềnh, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.

Năm là, tích cực đấu tranh phản bác hiệu quả các luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch trong và ngoài nước nhằm chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, chia rẽ quan hệ gắn bó “máu - thịt” giữa Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp với cử tri và Nhân dân cả nước. Hiện nay, với mục đích, âm mưu toan tính chống Đảng, Nhà nước, đòi xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta, các thế lực thù địch luôn gia tăng hoạt động, không từ bất cứ thủ đoạn thâm độc nào, trong đó chúng triệt để tuyên truyền các luận điệu xuyên tạc nhằm chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, tạo ra mâu thuẫn, thúc đẩy quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ ta. Đối với hoạt động của Quốc hội và Hội đồng nhân dân, các thế lực thù địch tìm cách xuyên tạc nhân thân, đời tư của các đồng chí giữ chức vụ cao; thổi phồng sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, vi phạm pháp luật của một số đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân; khoét sâu một số vấn đề mà Quốc hội và Hội đồng nhân dân ở một số địa phương đang tập trung giải quyết nhưng chưa triệt để vì nhiều lý do khách quan và chủ quan khác nhau… Vì vậy, thời gian tới cần tích cực triển khai và nâng cao hơn nữa hiệu quả công tác đấu tranh phản bác các luận điệu sai trái, thù địch, nhất là trên không gian mạng có liên quan đến hoạt động của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp./.

[1] Điều 69, Hiến pháp năm 2013, Hà Nội.

[2] Trọng Quỳnh, Đánh giá tình hình triển khai luật, nghị quyết của Quốc hội khoá XV, đăng ngày 6/9/2023, https://quochoi.vn, truy cập ngày 30/7/2024.

[3] Nho Tuấn, Khai mạc phiên họp chất vấn và trả lời chất vấn kỳ họp thứ 6, https://dbnd.quangnam.gov.vn, truy cập ngày 25/7/2024. 

[4] Hồ Chí Minh, Về quan điểm quần chúng, Nxb. Chính trị quốc gia, H.1977, tr. 58.

Tiến sĩ NGUYỄN THỊ THANH NGA

Khoa Luật, Học viện Chính trị Công an nhân dân

Các tin khác