Vai trò to lớn của quần chúng nhân dân trong cách mạng vô sản đã được chủ nghĩa Mác - Lênin sớm chỉ rõ. Trong tác phẩm Góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hêghen (năm 1843), Mác khẳng định: “Không phải chế độ nhà nước tạo ra Nhân dân mà Nhân dân tạo ra chế độ nhà nước”[1]. Phát triển tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen trong điều kiện mới sau này khi bàn về mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội và liên quan đến vai trò của quần chúng nhân dân, V.I. Lênin đã khẳng định: “Chủ nghĩa xã hội sinh động và sáng tạo là sự nghiệp của bản thân quần chúng nhân dân”[2]. Theo đó, không phải ai khác mà chính quần chúng nhân dân là lực lượng chủ yếu lao động, sáng tạo ra của cải vật chất và những giá trị tinh thần của mọi xã hội trong đó có xã hội chủ nghĩa, đồng thời cũng là lực lượng chủ chốt, vô cùng quan trọng trong thực hiện các tiến trình cách mạng.
Trong lịch sử Việt Nam, người anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới Nguyễn Trãi cũng đã từng khẳng định: “Chở thuyền, lật thuyền cũng là dân”. Thấm nhuần luận điểm của các nhà kinh điển C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I. Lênin, sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh và khẳng định vai trò đặc biệt quan trọng của Nhân dân. Trong “Bài nói chuyện tại lớp nghiên cứu chính trị khóa 2 Trường Đại học nhân dân Việt Nam” năm 1956 Người căn dặn: “Trong bầu trời không gì quý bằng Nhân dân. Trong thế giới, không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của Nhân dân”[3]. Nhân dân là lực lượng vô tận của cách mạng và là nhân tố then chốt quyết định thắng lợi của cách mạng. Người khẳng định: “Có dân là có tất cả”; “Không có lực lượng Nhân dân thì việc nhỏ mấy, dễ mấy, làm cũng không xong; có lực lượng nhân dân, thì việc khó mấy, to mấy cũng làm được”[4]; “Trong xã hội không có gì tốt đẹp, vẻ vang bằng phục vụ cho lợi ích của Nhân dân”[5]; “Gốc có vững cây mới bền/ Xây lầu thắng lợi trên nền Nhân dân”[6].
Tư tưởng “Lấy dân làm gốc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng được thể hiện rất rõ trong quá trình chỉ đạo soạn thảo và ban hành bản Hiến pháp đầu tiên của nước ta đó là: “Tất cả quyền bính trong nước là của toàn dân” và “tất cả công dân Việt Nam… đều được tham gia chính quyền” được thể hiện tại Điều 1 và Điều 7 của Hiến pháp năm 1946. Thực tiễn quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam chiến đấu và chiến thắng các cuộc đấu tranh chống phong kiến, kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ cũng như trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn quán triệt bài học “Lấy dân làm gốc”, thường xuyên chú trọng xây dựng và phát huy mối quan hệ “máu - thịt” giữa Đảng với Nhân dân.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, quan điểm về “dân là gốc”, “dân là chủ” - vị trí nền tảng và vai trò làm chủ - đã được phát triển, mở rộng, làm sáng rõ. Đảng Cộng sản Việt Nam xác định vị trí trung tâm, vai trò chủ thể của Nhân dân với phương hướng cụ thể đặt ra là: “Thực hành và phát huy rộng rãi dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ và vai trò chủ thể của Nhân dân; củng cố, nâng cao niềm tin của Nhân dân, tăng cường đồng thuận xã hội”[7]; “Đề cao vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của Nhân dân trong chiến lược phát triển đất nước”; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ yêu cầu, nguyện vọng, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân; thắt chặt mối quan hệ mật thiết với Nhân dân, dựa vào Nhân dân để xây dựng Đảng; lấy hạnh phúc, ấm no của Nhân dân làm mục tiêu phấn đấu, củng cố và tăng cường niềm tin của Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa”[8]; đồng thời kiên quyết, kiên trì thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”[9]. Khẳng định, nhấn mạnh vai trò, vị trí, tầm quan trọng của bài học “lấy dân làm gốc”, Cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từng phát biểu chỉ đạo: “Ta làm hợp lòng dân thì dân tin và chế độ ta còn, Đảng ta còn. Ngược lại, nếu cái gì làm trái lòng dân, để mất niềm tin là mất tất cả”.
Ở đây phải khẳng định chắc chắn rằng bài học “Lấy dân làm gốc” là bài học xuyên suốt quá trình cách mạng và phải được mọi cơ quan, tổ chức, cán bộ, đảng viên nghiêm túc quán triệt và nhận thức đầy đủ trong ý chí và hành động thực tiễn của mình. Đương nhiên, đối với mỗi cơ quan, đơn vị, cá nhân có chức năng, nhiệm vụ cụ thể khác nhau thì cách thức cụ thể hóa và quán triệt thực hiện bài học “Lấy dân làm gốc” cũng khác nhau. Đối với Quốc hội và Hội đông nhân dân các cấp ở nước ta đều nằm trong hệ thống các cơ quan dân cử thì không những không là ngoại lệ mà còn càng phải thấm nhuần sâu sắc hơn nữa bài học này. Bởi lẽ, “Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam…” (Điều 69, Hiến pháp năm 2013). Đại biểu Quốc hội là bộ phận cấu thành nên Quốc hội, là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của Nhân dân ở đơn vị bầu cử ra mình và của Nhân dân cả nước; là người thay mặt Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước trong Quốc hội (khoản 1, Điều 21, Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014, sửa đổi, bổ sung năm 2020). Trong khi đó, Hội đồng nhân dân các cấp là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên. Đồng thời, Hội đồng nhân dân các cấp gồm các đại biểu Hội đồng nhân dân do cử tri ở địa phương bầu ra, là những người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của Nhân dân địa phương, chịu trách nhiệm trước cử tri địa phương và trước Hội đồng nhân dân về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn đại biểu của mình (khoản 1 và 2, Điều 6, Luật Tổ chức Chính quyền địa phương năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2023). Như vậy, Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất ở Trung ương và Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương các cấp (cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã) và hoạt động của các cơ quan quyền lực này có sự gắn bó chặt chẽ, thể hiện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân.
Những năm qua, trong quá trình thực hiện chức năng thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước, Quốc hội nước ta đã quán triệt và thực hiện nghiêm túc bài học “Lấy dân làm gốc”. Có thể lấy dẫn chứng thông qua việc Quốc hội đã chú trọng việc đổi mới và nâng cao chất lượng công tác lập hiến và lập pháp nhằm từng bước bổ sung, từng bước hoàn thiện và khắc phục những hạn chế, bất cập trong hệ thống pháp luật của nước ta. Nhìn chung, văn bản quy phạm pháp luật được ban hành trong những năm qua đã thể chế hóa kịp thời đường lối, chủ trương của Đảng, cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp năm 2013, bám sát yêu cầu của thực tiễn cuộc sống, tiếp thu rộng rãi ý kiến góp ý của Nhân dân trước khi ban hành, qua đó tạo sự đồng thuận, ủng hộ trong xã hội. Các văn bản quy phạm pháp luật được Quốc hội ban hành đã trở thành cơ sở pháp lý quan trọng góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các cơ quan nhà nước, tạo điều kiện thuận lợi cho việc triển khai các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao chất lượng đời sống Nhân dân, bảo đảm an sinh xã hội và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân hướng tới xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa đích thực của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân.
Bên cạnh đó, Quốc hội đã có nhiều đổi mới thực hiện quy trình, thủ tục lựa chọn và đưa ra thảo luận, quyết nghị những vấn đề quan trọng của đất nước trên các lĩnh vực phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, đối ngoại, bảo đảm tính hiệu quả, chất lượng và khả thi cao. Công tác giám sát của Quốc hội ngày càng được chú trọng, đổi mới và nâng cao hiệu quả. Các nội dung Quốc hội đưa ra giám sát những năm qua cho thấy đã tập trung vào những vấn đề trọng tâm, trọng điểm trên tất cả các lĩnh vực, qua đó kịp thời phát hiện và đề xuất, kiến nghị nhằm hoàn thiện chính sách, pháp luật, tạo cơ sở cho việc quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước. Hoạt động giám sát chuyên đề được tổ chức bài bản hơn và có sự đa dạng trong thực hiện cách thức tổ chức giám sát. Trong đó, hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn đã có sự đổi mới căn bản, tạo ra điểm nhấn trong các kỳ họp của Quốc hội. Các vấn đề được đại biểu Quốc hội đưa ra chất vấn đối với Chính phủ, thành viên Chính phủ và Trưởng các ngành đều là những vấn đề “nóng” phát sinh từ thực tiễn cũng như nhằm giải quyết kịp thời những vấn đề mà cử tri và Nhân dân cả nước quan tâm. Quá trình tranh luận sôi nổi tại nghị trường đã thể hiện quyết tâm và trách nhiệm cao của các đại biểu trong việc làm sáng rõ, sâu sắc các vấn đề đưa ra chất vấn. Ngoài ra, trong phương thức hoạt động của Quốc hội cũng đã có những điều chỉnh nhằm thể hiện tính công khai, minh bạch và gần gũi hơn với cử tri và Nhân dân cả nước. Điển hình: Việc tăng thời lượng truyền hình trực tiếp các phiên thảo luận tại hội trường trên sóng của Truyền hình Quốc hội Việt Nam, qua đó kịp thời thông tin rộng rãi và tạo điều kiện cho cử tri và Nhân dân giám sát hoạt động của Quốc hội; việc lựa chọn và đưa ra bàn thảo, quyết định ban hành kịp thời các chính sách ngày càng sát với yêu cầu của thực tiễn cũng như kỳ vọng của cử tri và Nhân dân; đã tăng thời lượng họp các phiên họp toàn thể để nhiều đại biểu có điều kiện được phát biểu, đồng thời số lượng đại biểu đăng ký phát biểu cũng có chiều hướng tăng với mong muốn phản ánh đầy đủ những phản ánh, kiến nghị của cử tri và Nhân dân tham gia góp ý với các nội dung mà Quốc hội đưa ra bàn luận; đã tổ chức các buổi thảo luận riêng về kết quả giám sát việc giải quyết kiến nghị của cử tri và Nhân dân, qua đó thể hiện trách nhiệm ngày càng cao đối với công tác dân nguyện của Quốc hội.
Đối với hoạt động của Hội đồng nhân dân các cấp những năm qua cũng đã có nhiều đổi mới nhằm thể hiện trách nhiệm ngày càng cao trước Nhân dân ở các địa phương. Hội đồng nhân dân đã chủ động hơn trong việc ban hành nghị quyết về chương trình xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật cho cả nhiệm kỳ nhằm góp phần hoàn thiện thể chế phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Số lượng Nghị quyết mà Hội đồng nhân dân các cấp ban hành có chiều hướng gia tăng qua các năm, qua đó kịp thời thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng cũng như các chủ trương của Quốc hội, Chính phủ, tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho việc thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội và các vấn đề khác có liên quan. Công tác chuẩn bị và tổ chức các kỳ họp, công tác thẩm tra, xem xét, quyết định những vấn đề quan trọng của địa phương đã được Hội đồng nhân dân các cấp thực hiện nghiêm túc; tập trung tháo gỡ những vướng mắc về thể chế, chính sách nhằm khơi thông các nguồn lực của các địa phương phục vụ có hiệu quả triển khai các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế, văn hóa, giáo dục, y tế, phòng, chống thiên tai, dịch bệnh, bảo đảm an sinh xã hội, xóa đói, giảm nghèo bền vững, không ngừng nâng cao đời sống của Nhân dân. Nhằm gắn bó và thường xuyên lắng nghe ý kiến, nguyện vọng của cử tri và Nhân dân, Hội đồng nhân dân các cấp và đại biểu Hội đồng nhân dân đã tăng cường các hình thức tiếp xúc cử tri; tiếp và giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân; giải quyết kiến nghị của cử tri và Nhân dân. Bên cạnh đó, hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân cũng được lan tỏa từ sự đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động này của Quốc hội. Hội đồng nhân dân đã tập trung đưa vào diện giám sát những vấn đề cấp thiết, quan trọng, được cử tri và Nhân dân tại các địa phương quan tâm, theo dõi như: Quản lý đất đai, trật tự đô thị; cải cách thủ tục hành chính; vấn đề môi trường; đầu tư công và quản lý tài sản công, nhất là đối với các dự án chậm được triển khai hoặc ảnh hưởng lớn đến đời sống dân sinh. Nếu trước đây hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân các cấp chủ yếu tập trung vào việc giám sát chuyên đề và chất vấn tại các kỳ họp thì hiện nay đã đa dạng hơn theo hướng chú trọng tiến hành hoạt động chất vấn, giải trình của Thường trực Hội đồng nhân dân giữa các kỳ họp và tăng cường hoạt động giám sát của các tổ đại biểu và của đại biểu Hội đồng nhân dân. Ngoài ra, việc tái giám sát cũng được Hội đồng nhân dân các cấp chú trọng hơn nhằm quyết tâm giải quyết triệt để các vấn đề giám sát. Ví dụ: Hội đồng nhân dân một số quận trên địa bàn thành phố Hà Nội đã tổ chức các phiên chất vấn bằng hình thức trực tiếp kết hợp với trực tuyến đến các phường để người dân có cơ hội được trao đổi ý kiến trực tiếp.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tích, kết quả đạt được trong hoạt động của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp, đặc biệt là những nội dung thể hiện sự quán triệt sâu sắc bài học “Lấy dân làm gốc” và tinh thần, trách nhiệm cao đối với cử tri và Nhân dân cả nước, những năm qua, vẫn còn có lúc, có nơi, nhất là trong hoạt động của Thường trực Hội đồng nhân dân cũng như của các Ban, Tổ và đại biểu Hội đồng nhân dân một số địa phương chưa thực sự đáp ứng được sự kỳ vọng, mong đợi của cử tri và Nhân dân. Những hạn chế này biểu hiện thông qua một số nội dung như: Chất lượng một số kỳ họp của Hội đồng nhân dân tại một số địa phương chưa cao; hiệu quả đạt được trong thực hiện hoạt động giám sát một số vấn đề phát sinh ở các địa phương còn chưa tương xứng với yêu cầu đặt ra, số lượng vấn đề đưa vào diện tái giám sát còn ít và chưa được thực hiện thường xuyên; hoạt động giải trình tại các phiên họp của Hội đồng nhân dân đôi khi được tiến hành hình thức; việc đôn đốc và theo dõi kết quả giải quyết, khiếu nại, tố cáo của công dân và kiến nghị của cử tri, Nhân dân còn chưa thường xuyên và vẫn chủ yếu do đại biểu chuyên trách thực hiện; quan hệ phối hợp giữa Thường trực Hội đồng nhân dân, Đoàn đại biểu Quốc hội, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc tại một số địa phương có lúc, có nơi chưa thực sự chặt chẽ và hiệu quả…
Thời gian tới, tình hình thế giới và khu vực vẫn tiếp tục diễn biến phức tạp, nhất là sự cạnh tranh ảnh hưởng giữa các nước lớn, tình hình xung đột giữa các quốc gia ở một số khu vực trên thế giới. Những vấn đề lớn đó đang có tác động mạnh mẽ đến toàn cầu, nhất là trong quan hệ hợp tác giữa các quốc gia, trong đó có Việt Nam. Hiện nay, cả nước đã và đang trong những năm cuối triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng và chuẩn bị cho kỳ Đại hội XIV. Đảng và Nhà nước ta đang tập trung chỉ đạo triển khai thực hiện các chương trình, kế hoạch nhằm khắc phục những hậu quả do đại dịch Covid-19 càn quét để lại, tiếp tục thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội trên con đường xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Việc thực hiện các mục tiêu mà Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đề ra chắc chắn đang gặp phải những khó khăn nhất định xuất phát từ ảnh hưởng chung của tình hình nêu trên và ảnh hưởng của cơn bão Yagi. Do đó, với vai trò là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân và cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất ở Trung ương và các địa phương thì nhiệm vụ đặt ra đối với Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp sẽ gặp phải những khó khăn, thách thức hơn. Trong bối cảnh đó, bài học “Lấy dân làm gốc” lại càng phải được thấm nhuần và phát huy hơn nữa trong quá trình tổ chức mọi hoạt động của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp. Trong đó, cần tập trung vào một số nội dung trọng tâm sau đây:
Thứ nhất, Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp phải luôn chú trọng và thường xuyên tiến hành công tác tuyên truyền, phổ biến, quán triệt để các cấp lãnh đạo, cán bộ các cơ quan trực thuộc Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp và toàn thể đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân nhận thức rõ ý nghĩa và tầm quan trọng của bài học “Lấy dân làm gốc” trong quá trình triển khai các hoạt động của mình. Theo đó, để nội dung này đạt hiệu quả cao cần đa dạng hóa cả nội dung và hình thức tuyên truyền, phổ biến, quán triệt để mỗi tập thể và cá nhân phải luôn ý thức sâu sắc rằng với vai trò là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân ở Trung ương và các địa phương thì tất cả hoạt động của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp phải thể hiện ý chí, nguyện vọng của Nhân dân, lắng nghe ý kiến của Nhân dân và hành động để bảo vệ lợi ích chính đáng của đông đảo quần chúng nhân dân và của đất nước.
Thứ hai,Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp phải luôn duy trì mối liên hệ mật thiết với Nhân dân nhằm thường xuyên lắng nghe, tiếp thu ý kiến của cử tri và Nhân dân cả nước trong suốt quá trình hoạt động của mình. Cần nghiên cứu nhằm đa dạng hơn nữa các hình thức tiếp xúc cử tri; tiếp và giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân cũng như tiếp nhận và giải quyết kiến nghị của cử tri và Nhân dân. Trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra như vũ bão hiện nay cần tiếp tục nghiên cứu ứng dụng công nghệ thông tin, không gian mạng nhằm kịp thời tiếp thu ý kiến phản ánh, góp ý của cử tri và Nhân dân. Đặc biệt phải kịp thời giải quyết hoặc đôn đốc các cơ quan chức năng giải quyết dứt điểm các kiến nghị của cử tri và Nhân dân
Thứ ba, tập thể Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp cần tiếp tục nêu cao tinh thần trách nhiệm, tích cực nghiên cứu nhằm đổi mới và nâng cao hơn nữa chất lượng, hiệu quả các hoạt động trong khuôn khổ chức năng, nhiệm vụ của mình thời gian tới. Bởi vì, chỉ có tinh thần trách nhiệm và những kết quả đạt được trong quá trình triển khai các nhiệm vụ cụ thể mới là thước đo chính xác nhất để đánh giá chất lượng, hiệu quả hoạt động của một cơ quan, tổ chức và cá nhân trong thực tế. Đối với Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp là các cơ quan quyền lực nhà nước và cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân ở Trung ương và địa phương thì tinh thần trách nhiệm và kết quả hoạt động của các cơ quan này có sự tác động trực tiếp đến Nhân dân, phục vụ lợi ích của đông đảo quần chúng nhân dân. Điều đó là sự thể hiện rõ ràng nhất của việc thấm nhuần bài học “Lấy dân làm gốc” và qua đó tiếp tục xây dựng, củng cố niềm tin yêu vững chắc trong cử tri và Nhân dân cả nước với Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp.
Thứ tư, phát huy hơn nữa vai trò và sự tham gia của Nhân dân trong hoạt động của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp. Về phía Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp cần nhân rộng và tiến hành thường xuyên hơn nữa các hoạt động được triển khai trong thời gian qua mà qua đó tạo điều kiện cho cử tri và Nhân dân tham gia các hoạt động cụ thể của mình cũng như tham gia giám sát các hoạt động của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp. Điển hình như: Hoạt động truyền hình trực tiếp các phiên họp; hoạt động lấy ý kiến của Nhân dân đối với các dự án luật; hoạt động tiếp xúc cử tri theo chuyên đề, tiếp xúc cử tri nơi công tác và nơi cư trú… Đồng thời, trong thời gian tới cần xây dựng và mở rộng hơn nữa cơ chế tạo điều kiện để Nhân dân tham gia các hoạt động của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp.
Tóm lại, bài học “Lấy dân làm gốc” chính là bài học kinh nghiệm quan trọng nhất cần được tiếp tục kế thừa và phát triển trong suốt chặng đường xây dựng và phát triển của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp ở nước ta. Bài học này cần được nhận thức sâu sắc hơn nữa, từ ý chí đến hành động và cụ thể hóa trong mọi hoạt động của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp trong bối cảnh tình hình mới hiện nay để Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp thực sự là cơ quan quyền lực Nhà nước ở Trung ương và địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân.
[1] C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 1995, t.1, tr. 350.
[2] V.I. Lênin, Toàn tập, t.39. M.1977, tr. 251.
[3] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2011, t. 10, tr. 453.
[4] Hồ Chí Minh, Về quan điểm quần chúng, Nxb. Chính trị quốc gia, H.1977, tr. 58.
[5] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2011, t. 10, tr. 453.
[6] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2011, t.5, tr.502.
[7] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021,t.I, tr.38.
[8] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 27 – 28.
[9] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021,t.I, tr. 27.
Tiến sĩ NGUYỄN THỊ THANH NGA
Khoa Luật, Học viện Chính trị Công an nhân dân