/ Nghiên cứu - Trao đổi
/ Đảm bảo yếu tố tranh tụng trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015

Đảm bảo yếu tố tranh tụng trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015

18/03/2025 06:24 |4 giờ trước

(LSVN) - Theo xu hướng phát triển tiến bộ của pháp luật tố tụng và trên tinh thần cải cách tư pháp của Nhà nước, cụ thể hóa nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm quy định trong Hiến pháp 2013, Điều 26 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.

Theo đó, Điều 26 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định như sau: 

Điều 26. Tranh tụng trong xét xử được bảo đảm

Trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, Điều tra viên, Kiểm sát viên, người khác có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người bị buộc tội, người bào chữa và người tham gia tố tụng khác đều có quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, đánh giá chứng cứ, đưa ra yêu cầu để làm rõ sự thật khách quan của vụ án.

Tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án do Viện kiểm sát chuyển đến Tòa án để xét xử phải đầy đủ và hợp pháp. Phiên tòa xét xử vụ án hình sự phải có mặt đầy đủ những người theo quy định của Bộ luật này, trường hợp vắng mặt phải vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan hoặc trường hợp khác do Bộ luật này quy định. Tòa án có trách nhiệm tạo điều kiện cho Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, những người tham gia tố tụng khác thực hiện đầy đủ quyền, nghĩa vụ của mình và tranh tụng dân chủ, bình đẳng trước Tòa án.

Mọi chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định vô tội, tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, áp dụng điểm, khoản, điều của Bộ luật Hình sự để xác định tội danh, quyết định hình phạt, mức bồi thường thiệt hại đối với bị cáo, xử lý vật chứng và những tình tiết khác có ý nghĩa giải quyết vụ án đều phải được trình bày, tranh luận, làm rõ tại phiên tòa.

Bản án, quyết định của Tòa án phải căn cứ vào kết quả kiểm tra, đánh giá chứng cứ và kết quả tranh tụng tại phiên tòa.

Lần đầu tiên nguyên tắc tranh tụng được thể hiện trong Bộ luật Tố tụng hình sự, đồng thời từ đó vấn đề tranh tụng cũng đã được thể hiện trong một loạt các quy định khác nhau của bộ luật, với mục đích tăng cường tranh tụng trong tố tụng hình sự, nhằm bảo đảm quyền con người, chống oan sai, nhanh chóng xác định sự thật khách quan của vụ án. 

Nguyên tắc tranh tụng ra đời nhằm bảo đảm sự bình đẳng giữa bên gỡ tội và bên buộc tội trong tố tụng hình sự. Do cơ quan thực hành quyền công tố (Viện kiểm sát) là cơ quan đại diện cho Nhà nước truy tố bị cáo ra trước Toà, với địa vị pháp lý của mình, cơ quan này luôn ở thế chủ động và thuận lợi hơn rất nhiều so với bên gỡ tội. Vì vậy, nguyên tắc tranh tụng đã tạo ra sự đối trọng cần thiết giữa bên buộc tội và bên gỡ tội, tạo ra sự bình đẳng trong tố tụng hình sự thông qua việc thừa nhận quyền của các bên trong việc đưa ra chứng cứ, yêu cầu, tranh luận, đối đáp...

Ảnh minh họa.

Ảnh minh họa.

Nguyên tắc tranh tụng không chỉ dừng lại ở việc xác định tranh tụng có mặt trong xét xử tại phiên tòa mà còn bao quát trong tất cả quá trình tố tụng từ khởi tố, điều tra, truy tố cho đến xét xử để bảo đảm bên buộc tội và bên bào chữa được quyền bình đẳng trong việc thu thập, đánh giá chứng cứ, tài liệu và các tình tiết vụ án để làm rõ sự thật khách quan của vụ án trước khi vào cuộc tranh tụng. Sự ra đời của nguyên tắc tranh tụng đã tạo ra hành lang pháp lý cụ thể trong việc bảo đảm cho người bị buộc tội có thể thực hiện được đầy đủ các quyền của mình trong tất cả các giai đoạn của tố tụng hình sự và đề cao vai trò của người bào chữa trong các giai đoạn của tố tụng hình sự.

Bên cạnh việc bổ sung một điều luật mới quy định về nguyên tắc tranh tụng, việc đảm bảo tranh tụng trong Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 còn được thể hiện thông qua bổ sung các quy định nhằm tăng cường yếu tố tranh tụng trong tố tụng hình sự, bao gồm: (1) Quyền thu thập và trình bày chứng cứ của người bào chữa, (2) Nguyên tắc tranh tụng và kiểm tra chứng cứ tại phiên tòa, và (3) Quyền im lặng của người bị buộc tội.

Quyền thu thập và trình bày chứng cứ của người bào chữa.

Điều 26 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 ghi nhận trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, Điều tra viên, Kiểm sát viên, người khác có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người bị buộc tội, người bào chữa và người tham gia tố tụng khác đều có quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, đánh giá chứng cứ, đưa ra yêu cầu để làm rõ sự thật khách quan của vụ án.

Để giải quyết vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ thì bên buộc tội, bên gỡ tội và những người khác có quyền và lợi ích hợp pháp cần được giải quyết trong vụ án đều phải được bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ và đưa ra những yêu cầu. Trước đây, quyền bình đẳng trong việc đưa chứng cứ, đưa yêu cầu của các bên liên quan trong vụ án chỉ được thực hiện vào thời điểm tại phiên tòa. Quy định mới đã mở rộng cả về phạm vi quyền, thời gian cũng như về chủ thể được hưởng quyền. Không chỉ là quyền đưa chứng cứ, yêu cầu mà pháp luật còn quy định các chủ thể được bình đẳng trong việc đánh giá chứng cứ; không chỉ giới hạn thời điểm thực hiện quyền chỉ tại phiên tòa mà quyền bình đẳng trong việc đưa chứng cứ, yêu cầu, đánh giá chứng cứ được thực hiện trong suốt quá trình giải quyết vụ án; các chủ thể tranh tụng bao gồm: Điều tra viên, Kiểm sát viên, người khác có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người bị buộc tội, người bào chữa và người tham gia tố tụng khác.

Đồng thời, Điều 73 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định người bào chữa có quyền thu thập và trình bày chứng cứ, tài liệu, đồ vật, và yêu cầu. Tùy thuộc vào từng giai đoạn tố tụng, khi người bào chữa thu thập chứng cứ họ phải nộp cho cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền trong giai đoạn đó.

Tuy nhiên, thực tiễn hiện nay chỉ ra rằng, Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 chỉ quy định về quyền thu thập tài liệu, chứng cứ của người bào chữa, không quy định về phương thức, quyền hạn, giới hạn thu thập chứng cứ của người bào chữa. Do đó, gây ra khó khăn cho người bào chữa trong quá trình thu thập tài liệu, chứng cứ.

Ví dụ: Trong vụ án cố ý gây thương tích, người bào chữa tự đi thu thập tài liệu chứng cứ là đoạn ghi hình của vụ án trích xuất từ camera nhà người dân xung quanh. Tuy nhiên, người dân cho rằng người bào chữa không phải là cơ quan có thẩm quyền nên không đồng ý cung cấp.

Do đó, để có thể đảm bảo nguyên tắc tranh tụng, đặc biệt về vấn đề thu thập chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu của người bào chữa thì cần có quy chế rõ ràng, tạo hành lang pháp lý vững chắc để người bào chữa có thể thu thập, tài liệu chứng cứ trong phạm vi của mình.

Nguyên tắc tranh tụng và việc trình bày, kiểm tra chứng cứ tại phiên tòa

Tại phiên tòa, thẩm phán không thể chỉ dựa vào chứng cứ trong hồ sơ vụ án để làm căn cứ phán quyết vụ án, mà phải đặt nhiều trọng tâm hơn vào diễn biến tại phiên tòa. Mọi chứng cứ có trong hồ sơ vụ án phải được trình bày và kiểm tra tại phiên tòa. Bất kỳ chứng cứ nào không được trình bày tại phiên tòa thì không thể được xem là căn cứ để giải quyết vụ án. Quy định này được cho là sẽ giúp xây dựng một phiên tòa công bằng hơn bằng việc trao cho người bào chữa cơ hội kiểm tra chứng cứ trong hồ sơ vụ án. Từ đó, thẩm phán sẽ có cơ hội nhìn nhận những chứng cứ đó từ góc nhìn của người bào chữa và giảm thiểu khả năng thiên kiến buộc tội của thẩm phán.

Mọi chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định vô tội, tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, xác định tội danh, quyết định hình phạt, mức bồi thường thiệt hại đối với bị cáo, xử lý vật chứng và những tình tiết khác có ý nghĩa giải quyết vụ án đều phải được trình bày, tranh luận, làm rõ tại phiên tòa. Bất kỳ chứng cứ nào không được trình bày tại phiên tòa thì không thể được xem là căn cứ để giải quyết vụ án. Bản án và quyết định của toà án là kết quả của hoạt động xét xử của toà án và phản ánh thực tế tranh tụng tại phiên toà. Vì vậy bản án, quyết định của tòa án phải căn cứ vào kết quả kiểm tra, đánh giá chứng cứ và kết quả tranh tụng tại phiên toà. Quy định này giúp xây dựng một phiên tòa công bằng hơn bằng việc trao cho người bào chữa cơ hội kiểm tra chứng cứ trong hồ sơ vụ án. Từ đó, thẩm phán sẽ có cơ hội nhìn nhận những chứng cứ đó từ góc nhìn của người bào chữa và giảm thiểu khả năng thiên kiến buộc tội của thẩm phán.

Quyền im lặng của người bị buộc tội

Quyền im lặng được xem là một quyền quan trọng của người bị buộc tội trong tố tụng hình sự, là một yêu cầu quan trọng của một phiên tòa công bằng và là một vấn đề quan trọng của luật nhân quyền quốc tế, được thể hiện thông qua một tập hợp các bảo đảm tố tụng nhằm: (i) Bảo vệ các quyền tự do và an ninh cá nhân của con người (về tính mạng, thân thể, danh dự, nhân phẩm); và (ii) Đảm bảo quá trình xét xử được công bằng. Quyền im lặng không được quy định cụ thể trong luật nhân quyền quốc tế, nhưng được coi là quyền và (ii) Quyền không bị buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận là mình có tội. Dưới góc độ luật nhân quyền quốc tế, trong một kết luận của Ủy ban nhân quyền đã nêu: bất kì ai bị bắt giữ về một cáo buộc hình sự cần được thông báo về quyền giữ im lặng trong quá trình thẩm vấn của cảnh sát. Quyền im lặng được áp dụng phổ biến ở các nước có mô hình tố tụng tranh tụng của hệ thống thông luật, sau đó tiếp tục ảnh hưởng tới một số quốc gia theo mô hình tố tụng thẩm vấn.

Tại Việt Nam, mặc dù khái niệm “quyền im lặng” không được quy định rõ ràng trong Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, nhưng quyền này đã được bảo vệ gián tiếp thông qua các nguyên tắc cơ bản trong Hiến pháp 2013 và các quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự. Cụ thể, nguyên tắc “Suy đoán vô tội” (Điều 13 Hiến pháp 2013) khẳng định rằng người bị buộc tội không bị coi là có tội cho đến khi có đủ chứng cứ xác đáng chứng minh. Quyền im lặng liên quan trực tiếp đến nguyên tắc này, vì người bị buộc tội không bị ép phải cung cấp lời khai hoặc tự nhận tội nếu không có lợi cho mình.

Theo Điều 59 đến Điều 62 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, người bị buộc tội có quyền từ chối trả lời câu hỏi nếu họ cho rằng việc trả lời có thể gây hại đến quyền lợi của mình. Quyền này bảo vệ họ khỏi việc bị ép buộc phải nhận tội và giúp bảo đảm quyền lợi hợp pháp của họ trong suốt quá trình tố tụng. Bên cạnh đó, Điều 16 Hiến pháp năm 2013 cũng bảo vệ quyền bào chữa và quyền bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người bị buộc tội, cho phép họ lựa chọn cách thức bảo vệ mình, bao gồm việc giữ im lặng nếu cảm thấy việc khai báo có thể gây bất lợi.

Cuối cùng, theo Điều 26 Hiến pháp 2013, quyền tranh tụng trong xét xử được bảo đảm, tức là các bên trong vụ án (bao gồm cả bị cáo và bị hại) đều có quyền trình bày quan điểm và chứng cứ của mình. Quyền im lặng là một phần trong quyền tranh tụng này, giúp bị cáo có thể bảo vệ quyền lợi của mình mà không phải lo ngại về việc giữ im lặng sẽ ảnh hưởng đến kết quả xét xử. Như vậy, mặc dù không được quy định trực tiếp, quyền im lặng vẫn được bảo vệ gián tiếp thông qua các quyền cơ bản khác trong hệ thống pháp luật Việt Nam.

Quyền im lặng vốn được xem là một trụ cột cần thiết của tố tụng tranh tụng. Bộ luật tố tụng hình sự 2015 lần đầu tiên ghi nhận trực tiếp quyền im lặng của người bị buộc tội. Theo đó, người bị buộc tội có quyền không bị buộc phải đưa ra lời khai chống lại mình hoặc buộc phải nhận mình có tội. Các Bộ luật Tố tụng hình sự trước đây đều quy định “người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền trình bày lời khai”. Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 đã chính thức ghi nhận “người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội”.

Việc quy định quyền im lặng trong Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 của Việt Nam, là một sự cải cách tư pháp rất là nhân văn đối người phạm tội. Trong quá trình tố tụng, khi “Quyền im lặng” được áp dụng, thì người bị buộc tội sẽ không bị ép phải nhận tội hoặc không bị xem xét là tình tiết tăng nặng khi không khai báo với cơ quan chức năng về tội phạm đang bị khởi tố. Vậy, cơ quan tiến hành tố tụng sẽ phải dựa vào các chứng cứ vật chất hoặc những chứng cứ khách quan khác để xác minh hành vị phạm tội, thay vì dựa vào lời khai có thể bị ép buộc.

Theo khoản 2 Điều 98 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định lời khai của bị can, bị cáo cụ thể như sau: “2. Lời nhận tội của bị can, bị cáo chỉ có thể được coi là chứng cứ nếu phù hợp với những chứng cứ khác của vụ án. Không được dùng lời nhận tội của bị can, bị cáo làm chứng cứ duy nhất để buộc tội, kết tội”. Điều này cho thấy rằng pháp luật Việt Nam đã có những phương án dự phòng rõ ràng nhằm hạn chế việc sử dụng lời khai duy nhất từ người bị buộc tội như một bằng chứng để kết tội. Như vậy, lời khai của bị can, bị cáo chỉ có giá trị khi được hỗ trợ bởi các chứng cứ khác quan khác, từ đó giảm thiểu rủi ro lạm dụng lời nhận tội khi người bị buộc tội có thể bị ép buộc, hoặc bị cưỡng chế “quyền im lặng” trong quá trình tố tụng.

Như vậy, kể cả quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự trước đây cũng như Bộ luật Tố tụng hình sự hiện hành đều cho người bị buộc tội có quyền lựa chọn khai báo hoặc không khai báo trước cơ quan tiến hành tố tụng. Tuy nhiên, nếu họ tự nguyện trình bày những tình tiết liên quan đến hành vi phạm tội của bản thân hoặc tự nhận mình có tội thì cơ quan tiến hành tố tụng vẫn ghi nhận lời khai đó. Bên cạnh đó, pháp luật hình sự của Việt Nam từ trước đến nay đều quy định trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng; các cơ quan tiến hành tố tụng không được dùng lời nhận tội của bị can, bị cáo làm chứng cứ duy nhất để kết tội và chỉ được dùng làm chứng cứ khi nó phù hợp với những chứng cứ khác của vụ án; người bị buộc tội không phải chịu trách nhiệm hình sự vì lý do không khai báo, không khai báo cũng không bị coi là tình tiết làm tăng trách nhiệm hình sự, ngược lại khai báo thành khẩn lại được coi là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 ban hành đã đánh dấu một bước phát triển mới của hoạt động lập pháp tố tụng hình sự Việt Nam trong việc kế thừa, phát huy những thành tựu lập pháp, kinh nghiệm thực tiễn và các tri thức tố tụng hình sự Việt Nam với việc kết hợp, tiếp thu có chọn lọc những thành tựu của khoa học luật tố tụng hình sự cùng kinh nghiệm lập pháp tiên tiến của nhiều nước trên thế giới. Những nội dung được sửa đổi, bổ sung trong Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 đã thể chế hóa các quan điểm chỉ đạo của Đảng về cải cách tư pháp và cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp năm 2013, là cơ sở pháp lý quan trọng trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân.

Những sửa đổi, bổ sung nhằm đảm bảo tranh trụng trong tố tụng hình sự không chỉ đáp ứng yêu cầu phát triển của nền tư pháp hiện đại, mà còn đảm bảo quyền con người và quyền công dân trong quá trình tố tụng hình sự. Việc ghi nhận nguyên tắc tranh tụng trong tất cả các giai đoạn tố tụng, từ khởi tố, điều tra, truy tố cho đến xét xử, là một bước đi quan trọng trong việc bảo vệ công lý, tránh oan sai và tạo ra một hệ thống xét xử công bằng, minh bạch.

HOÀNG THÙY LINH
Tòa án Quân sự Quân khu 7

Các tin khác

LSVN