/ Nghiên cứu - Trao đổi
/ Các nguyên tắc hiến định về quyền của người bị buộc tội trong tố tụng hình sự

Các nguyên tắc hiến định về quyền của người bị buộc tội trong tố tụng hình sự

19/04/2022 16:40 |

(LSVN) - Hiến pháp là đạo luật cơ bản, do cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất ban hành, có hiệu lực pháp lý cao nhất, quy định những vấn đề cơ bản và quan trọng nhất của đất nước. Các quy định của hiến pháp có giá trị xuất phát điểm, điều chỉnh những quan hệ xã hội quan trọng nhất, là cơ sở pháp luật cho tất cả các ngành luật nhằm bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật quốc gia. Ở Việt Nam, trong lĩnh vực tố tụng hình sự, có một số nguyên tắc đã được Hiến pháp năm 2013 ghi nhận. Đây là những nguyên tắc cơ bản, liên quan trực tiếp đến hoạt động tư pháp hình sự, quy định về quyền con người, quyền của người bị buộc tội trong tố tụng hình sự.

Ảnh minh họa.

Nguyên tắc quyền được sống

Trong các bản Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980, 1992, quyền sống được thể hiện thông qua các quyền bất khả xâm phạm về thân thể, tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của công dân chứ không được đề cập như một quyền cụ thể. Đến Hiến pháp năm 2013, quyền sống mới được quy định trực tiếp tại Điều 19 và được gắn với sự bảo hộ pháp lý về tính mạng: “Mọi người có quyền sống. Tính mạng con người được pháp luật bảo hộ. Không ai bị tước đoạt tính mạng trái luật”.

Như vậy, về quyền sống, pháp luật Việt Nam hiện đã tương thích với Luật Nhân quyền quốc tế ở mức độ những nguyên tắc cơ bản. Tuy nhiên, nếu so sánh với những yêu cầu cụ thể về quyền này trong Luật Nhân quyền quốc tế, vẫn còn một số điểm cần nghiên cứu để tiếp tục hoàn thiện cho phù hợp hơn với pháp luật quốc tế và xu hướng chung trên thế giới.

Việt Nam là một trong 55 quốc gia (tính đến 2016) vẫn duy trì hình phạt tử hình. Trong Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 vẫn quy định hình phạt tử hình đối với 18 tội danh trong số 314 tội danh, thuộc 7/14 nhóm tội phạm, giảm 11 tội danh so với Bộ luật Hình sự năm 1999 và giảm 04 tội danh so với Bộ luật Hình sự (sửa đổi năm 2009). Án tử hình chỉ áp dụng đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, gồm: Tội "Xâm phạm an ninh quốc gia hoặc phản bội tổ quốc", tội "Giết người", tội "Hiếp dâm trẻ em", tội phạm về ma túy, tội "Tham nhũng" và tội phạm chiến tranh.

Người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội mang tính bạo lực, dã man, tàn bạo, gây bất bình trong nhân dân, hoặc phạm tội có tổ chức với quy mô lớn, có sự câu kết chặt chẽ giữa các băng, nhóm tội phạm trong việc thực hiện tội phạm, gây thiệt hại cho nhiều người, đối tượng thực hiện là những kẻ chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, ngoan cố chống đối, lưu manh, côn đồ, tái phạm nguy hiểm, người phạm tội có tính chất chuyên nghiệp. Tuy nhiên, các chủ thể sau đây không bị áp dụng hình phạt tử hình: Người dưới 18 tuổi khi phạm tội, phụ nữ có thai, phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi hoặc người đủ 75 tuổi trở lên khi phạm tội hoặc khi xét xử. Những trường hợp sau đây sẽ không thi hành án tử hình đối với người bị kết án: Phụ nữ có thai hoặc phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi; Người đủ 75 tuổi trở lên; Người bị kết án tử hình về tội "Tham ô tài sản", tội "Nhận hối lộ" mà sau khi bị kết án đã chủ động nộp lại ít nhất ba phần tư tài sản tham ô, nhận hối lộ và hợp tác tích cực với cơ quan chức năng trong việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm hoặc lập công lớn.

Hệ thống pháp luật hiện hành của Việt Nam đã tương thích với những nguyên tắc cơ bản về quyền sống trong luật quốc tế. Những sửa đổi, bổ sung cần thiết, như đã nêu ở phần trên, chủ yếu tập trung vào vấn đề cốt lõi nhất của quyền sống, đó là hình phạt tử hình. Mặc dù vậy, giống như nhiều quốc gia khác, pháp luật Việt Nam vẫn cần được sửa đổi, bổ sung để hoàn thiện và tương thích ở mức độ cao hơn với các tiêu chuẩn quốc tế về quyền này, phù hợp với định hướng của Đảng trong Chiến lược cải cách tư pháp và hoàn thiện pháp luật hình sự.

Nguyên tắc bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể, danh dự, nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình

Trong hoạt động tố tụng hình sự, nguyên tắc này không cho phép những người tiến hành tố tụng có hành vi trái pháp luật đối với người bị buộc tội. Đồng thời, cũng đòi hỏi các cơ quan tiến hành tố tụng phải áp dụng các biện pháp cần thiết để bảo vệ người bị buộc tội.

Với tư tưởng đề cao và bảo vệ quyền con người, Hiến pháp năm 2013 quy định: “Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khỏe, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm” (khoản 1, Điều 20). Nguyên tắc hiến định này đã được cụ thể hóa tại Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, với các quy định: “Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể. Không ai bị bắt nếu không có quyết định của Tòa án, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp, việc bắt, tạm giữ, tạm giam người phải theo quy định của Bộ luật này. Nghiêm cấm tra tấn, bức cung, dùng nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, tính mạng, sức khỏe của con người” (Điều 10) và “Mọi người có quyền được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản. Mọi hành vi xâm phạm trái pháp luật tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của cá nhân, xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân đều bị xử lý theo pháp luật. Công dân Việt Nam không thể bị trục xuất, giao nộp cho nhà nước khác” (Điều 11).

Việc quy định bảo đảm không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình trong tư pháp hình sự có ý nghĩa lớn mang tính phòng ngừa cao của Hiến pháp, làm cơ sở cho việc xử lý vi phạm quyền con người trong hoạt động tư pháp hình sự. Mặt khác, quy định này cũng thể hiện sự tận tâm của Nhà nước Việt Nam đối với các Công ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã gia nhập, đặc biệt là Công ước chống tra tấn và các hình thức trừng phạt hay đối xử tàn ác, vô nhân đạo hoặc hạ thấp nhân phẩm năm 1984 (Việt Nam gia nhập năm 2013).

Nguyên tắc bảo đảm sự đúng đắn trong việc bắt người

Trong nội dung quyền bất khả xâm phạm về thân thể, danh dự, nhân phẩm, có quyền được bảo vệ để khỏi bị bắt, giam giữ tùy tiện. Quyền này gồm các nội dung:

a) Mọi người đều có quyền hưởng tự do an toàn cá nhân, không ai bị tước tự do trừ trường hợp việc tước tự do đó là có lý do và theo đúng thủ tục mà luật pháp quy định;

b) Bất cứ người nào bị bắt đều phải được thông báo về lý do họ bị bắt và phải được thông báo không chậm trễ về sự buộc tội đối với họ;

c) Bất cứ người nào bị bắt đều phải được đưa ra sớm trước cơ quan tài phán có thẩm quyền và xét xử trong thời hạn hợp lý hoặc trả tự do.

Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định có năm trường hợp bắt người: Bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp; Bắt người phạm tội quả tang; Bắt người đang bị truy nã; Bắt bị can, bị cáo để tạm giam; Bắt người bị yêu cầu dẫn độ. Biện pháp tạm giữ, tạm giam ảnh hưởng trực tiếp đến quyền tự do thân thể của con người nên được quy định rất chặt chẽ trong Bộ luật Tố tụng hình sự và các luật liên quan.

Theo đó, tạm giữ có thể áp dụng đối với người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang, người phạm tội tự thú, đầu thú hoặc đối với người bị bắt theo quyết định truy nã nhằm ngăn chặn tội phạm, ngăn chặn người bị bắt trốn tránh việc điều tra để xác minh tội phạm và truy cứu trách nhiệm hình sự đối với họ. Tạm giam là biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc nhất quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự, do Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án áp dụng đối với bị can, bị cáo nhằm ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn cứ chứng tỏ rằng bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội và để bảo đảm cho việc thi hành án.

Tạm giam có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo về tội đặc biệt nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng hoặc có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo về tội nghiêm trọng, tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật Hình sự quy định hình phạt tù trên 02 năm khi có căn cứ quy định tại Điều 119, Bộ luật Tố tụng hình sự.

Nguyên tắc suy đoán vô tội

Điều 31, Hiến pháp năm 2013 quy định: “Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”. Bộ luật tố Tụng hình sự năm 2015 đã quy định cụ thể hơn nội dung nguyên tắc này: “Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận người bị buộc tội không có tội” (Điều 13).

Việc ghi nhận nguyên tắc suy đoán vô tội trong Hiến pháp có ý nghĩa rất quan trọng, thể hiện quan điểm pháp lý tiến bộ, vì con người theo hướng nhân đạo, bảo vệ quyền con người trong hoạt động tư pháp. Tố tụng hình sự là toàn bộ các quy định về trình tự, thủ tục tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và một số thủ tục thi hành án hình sự.

Quá trình đó phải kết thúc bằng việc xác định rõ người bị buộc tội có tội hay không có tội, để có được kết luận đó, các cơ quan tiến hành tố tụng phải trên cơ sở nhận thức người đó được suy đoán vô tội cho đến khi lỗi của họ được chứng minh. Chủ thể của quyền được suy đoán vô tội là người bị buộc tội, còn chủ thể có nghĩa vụ bảo đảm quyền này là cơ quan, người tiến hành tố tụng.

Nguyên tắc suy đoán vô tội đòi hỏi trước hết nhận thức đúng đắn của các cơ quan và những người tiến hành tố tụng hình sự về tinh thần và nội dung của nguyên tắc hiến định này. Cải cách tư pháp đặt ra mục tiêu bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người. Mục tiêu đó chỉ có thể đạt được khi một trong những nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự ghi nhận ở tầm Hiến pháp được thực hiện nghiêm chỉnh và đầy đủ.

Nguyên tắc người bị buộc tội phải được Tòa án xét xử kịp thời trong thời hạn luật định, công bằng, công khai

Quyền được xét xử kịp thời, công bằng, công khai là một trong những quyền cơ bản của người bị buộc tội, có tính phổ biến và có mối liên hệ hữu cơ với quyền có người bào chữa và quyền được suy đoán vô tội. Việc Tòa án phải xét xử kịp thời là bảo đảm cho bị cáo được xét xử mà không bị trì hoãn một cách vô căn cứ. Xét xử kịp thời không chỉ là đòi hỏi từ khi truy tố người bị buộc tội đến khi mở phiên tòa, mà cả thời gian xét xử tại Tòa án, thời gian giữa hai phiên xét xử sơ thẩm và phúc thẩm. Xét xử kịp thời nhằm bảo đảm quyền của người bị buộc tội. Vì trong quá trình tố tụng, họ có thể bị áp dụng các biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự như tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú và bị hạn chế một số quyền trong khi họ chưa bị coi là có tội.

Một phiên tòa công bằng là yếu tố thiết yếu để bảo đảm các quyền cơ bản của người bị buộc tội như quyền sống, quyền bất khả xâm phạm thân thể, danh dự, nhân phẩm... Người bị buộc tội phải được xét xử bởi một phiên tòa mà ở đó họ được thực hiện các quyền của mình đã được Hiến pháp và pháp luật quy định như được thông báo về phiên tòa, được biết mình bị xét xử về tội gì, được tự bào chữa hoặc nhờ bào chữa, được tranh luận tại phiên tòa, được đưa ra các chứng cứ và yêu cầu...

Xét xử công khai cũng là một thuộc tính quan trọng trong một nền tư pháp dân chủ. Hiến pháp năm 2013 quy định: “TAND xét xử công khai. Trong trường hợp đặc biệt cần giữ bí mật Nhà nước, thuần phong, mỹ tục của dân tộc, bảo vệ người chưa thành niên hoặc giữ bí mật đời tư theo yêu cầu chính đáng của đương sự, TAND có thể xét xử kín” (khoản 3, Điều 103). Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 cũng quy định: “Tòa án xét xử công khai, mọi người đều có quyền tham dự phiên tòa, trừ trường hợp do Bộ luật này quy định...” (Điều 25).

Việc xét xử công khai thể hiện tính dân chủ nhằm tạo điều kiện cho nhân dân kiểm tra, giám sát được các hoạt động của Tòa án, qua đó phát hiện những thiếu sót hoặc sai lầm trong quá trình giải quyết vụ án, bảo vệ quyền và lợi ích của Nhà nước, của công dân theo quy định pháp luật. Xét xử công khai còn nhằm nâng cao trách tinh thần nhiệm của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân trước xã hội. Nếu việc xét xử không được tiến hành công khai, có thể dẫn đến tình trạng quan liêu, lạm quyền, thậm chí trái pháp luật từ cơ quan xét xử, gây thiệt hại uy tín của Nhà nước, quyền hợp pháp của người bị buộc tội.

Nguyên tắc không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm

Nguyên tắc không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm là một giá trị nhân đạo của tư pháp hình sự, được ghi nhận trong các văn bản pháp lý quốc tế và pháp luật của nhiếu quốc gia. Hiến pháp năm 2013 của Việt Nam quy định về nguyên tắc này như sau: “Không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm” (khoản 3, Điều 31) và được Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 cụ thể hóa tại Điều 14: “Không được khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử đối với người mà hành vi của họ đã có bản án của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, trừ trường hợp họ thực hiện hành vi nguy hiểm khác cho xã hội mà Bộ luật Hình sự quy định là tội phạm”.

Đối với việc truy cứu trách nhiệm hình sự một hành vi phạm tội, pháp luật Việt Nam cũng như các nước trên thế giới đều tuân theo nguyên tắc một hành vi phạm tội chỉ bị xử lý một lần. Vì vậy, khi khởi tố vụ án hình sự và trong suốt quá trình điều tra, truy tố, xét xử, nếu ở giai đoạn nào phát hiện hành vi phạm tội đang bị khởi tố đã có một bản án hoặc quyết định đình chỉ vụ án đã có hiệu lực pháp luật thì các cơ quan tiến hành tố tụng không được khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử người có hành vi đó nữa.

Nguyên tắc này thể hiện sự nhân đạo, chính nghĩa, công bằng trong pháp luật hình sự, thiết lập sự công bằng giữa lợi ích công và lợi ích riêng cá nhân. Đối với người đã bị kết án bằng một bản án có hiệu lực của Tòa án, quyết định đình chỉ điều tra hay đình chỉ vụ án sẽ giải thoát cho họ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự hai lần về cùng một hành vi phạm tội, bảo đảm công bằng các quyền lợi hợp pháp của công dân, không chỉ có ý nghĩa chính trị - xã hội mà còn tác động đến tâm tư, tình cảm và niềm tin của họ vào pháp luật, đồng thời có ý nghĩa đối với nhận thức pháp luật của công chúng về tính công bằng của pháp luật.

Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm

Ở Việt Nam, tiến trình cải cách tư pháp trong những năm gần đây đã có tác dụng thúc đẩy quá trình dân chủ hóa hoạt động tư pháp, bảo đảm quyền con người, quyền của người bị buộc tội. Một trong những kết quả nổi bật của cải cách tư pháp là việc Hiến pháp năm 2013 đã ghi nhận nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm (khoản 5, Điều 103) và được cụ thể hóa tại Điều 26, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 với các nội dung sau:

- Trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, Điều tra viên; Kiểm sát viên; Người khác có thẩm quyền tiến hành tố tụng; Người bị buộc tội; Người bào chữa và Người tham gia tố tụng khác đều có quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, đánh giá chứng cứ, đưa ra yêu cầu để làm rõ sự thật khách quan của vụ án.

- Tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án do Viện kiểm sát chuyển đến Tòa án để xét xử phải đầy đủ và hợp pháp. Phiên tòa xét xử vụ án hình sự phải có mặt đầy đủ những người theo quy định của Bộ luật này, trường hợp vắng mặt phải vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan hoặc trường hợp khác do Bộ luật này quy định. Tòa án có trách nhiệm tạo điều kiện cho Kiểm sát viên; Bị cáo; Người bào chữa; Những người tham gia tố tụng khác thực hiện đầy đủ quyền, nghĩa vụ của mình và tranh tụng dân chủ, bình đẳng trước Tòa án.

- Mọi chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định vô tội, tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, áp dụng điểm, khoản, điều của Bộ luật Hình sự để xác định tội danh, quyết định hình phạt, mức bồi thường thiệt hại đối với bị cáo, xử lý vật chứng và những tình tiết khác có ý nghĩa giải quyết vụ án đều phải được trình bày, tranh luận, làm rõ tại phiên tòa.

- Bản án, quyết định của Tòa án phải căn cứ vào kết quả kiểm tra, đánh giá chứng cứ và kết quả tranh tụng tại phiên tòa.

Nguyên tắc tranh tụng diễn ra xuyên suốt quá trình tố tụng hình sự, bắt đầu từ giai đoạn khởi tố vụ án hình sự, điều tra, truy tố và kéo dài đến tận các giai đoạn xét xử đến khi Tòa án ra phán quyết, tác động về cơ bản đến toàn bộ các giai đoạn của quá trình tố tụng hình sự. Việc xác định chủ thể tranh tụng dựa trên sự phân chia các chức năng của tố tụng hình sự thành ba chức năng buộc tội, bào chữa và xét xử.

Như vậy, chủ thể của tranh tụng sẽ gồm bên buộc tội (Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên) và bên kia gồm người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và người bào chữa. Tòa án sẽ phán quyết trên cơ sở ý kiến của cả bên buộc tội và gỡ tội.

Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội

Hiến pháp năm 2013 quy định tại khoản 4, Điều 31 như sau: “Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có quyền tự bào chữa, nhờ Luật sư hoặc người khác bào chữa”. Cụ thể hóa Hiến pháp, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định: “Người bị buộc tội có quyền tự bào chữa, nhờ Luật sư hoặc người khác bào chữa. Cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm thông báo, giải thích và bảo đảm cho người bị buộc tội, bị hại, đương sự thực hiện đầy đủ quyền bào chữa, quyền và lợi ích hợp pháp của họ theo quy định của Bộ luật này” (Điều 16) và “Người bào chữa là người được người bị buộc tội nhờ bào chữa hoặc cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng chỉ định và được cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng tiếp nhận việc đăng ký bào chữa” (khoản 1, Điều 72). Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã xây dựng một chương mới (Chương V) về bào chữa, thể hiện bước chuyển biến căn bản trong nhận thức toàn diện và sâu sắc tinh thần Hiến pháp năm 2013 về bảo vệ quyền của người bị buộc tội. Phạm vi người được bào chữa trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 cũng được mở rộng đến trợ giúp viên pháp lý trong trường hợp người bị buộc tội thuộc đối tượng được trợ giúp pháp lý. Đồng thời, mở rộng phạm vi bắt buộc phải có người bào chữa, các trường hợp chỉ định người bào chữa tại Điều 76.

Người bào chữa tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can. Trường hợp bắt, tạm giữ người thì người bào chữa tham gia tố tụng từ khi người bị bắt có mặt tại trụ sở của cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra hoặc từ khi có quyết định tạm giữ. Trường hợp cần giữ bí mật điều tra đối với các tội xâm phạm an ninh quốc gia thì viện trưởng Viện kiểm sát có thẩm quyền quyết định để người bào chữa tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra.

Nguyên tắc  bảo đảm quyền được bồi thường thiệt hại của người bị buộc tội

Hiến pháp năm 2013 quy định: “Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự”. Cụ thể hóa Hiến pháp, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định: “Người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án oan, trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự. Nhà nước có trách nhiệm bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi cho người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án oan, trái pháp luật do cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng gây ra. Người khác bị thiệt hại do cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng gây ra có quyền được Nhà nước bồi thường thiệt hại” (Điều 31).

So với Hiến pháp năm 1992, quy định về bảo đảm bồi thường thiệt hại trong tư pháp hình sự được Hiến pháp năm 2013 mở rộng hơn về đối tượng được bồi thường, theo đó người được bồi thường thiệt hại không chỉ là người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử mà cả người bị thiệt hại trong thi hành án. Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017 quy định tại Điều 18 về phạm vi bồi thường thiệt hại trong nhiều trường hợp, mở rộng hơn so với trước đây.

Với quy định của Hiến pháp năm 2013 về bảo đảm được bồi thường thiệt hại thì mọi hành vi không thực hiện việc bồi thường, bồi thường không đúng mức thiệt hại, để quá thời hạn bồi thường hoặc không khôi phục danh dự cho người bị thiệt hại trong tố tụng hình sự phải bị coi là vi phạm Hiến pháp, vi phạm quyền con người và có thể bị khởi kiện ra Tòa án.

Kết luận

Người bị buộc tội là những người tham gia tố tụng hình sự, giữ vị trí trung tâm trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Họ bị tình nghi thực hiện hành vi có dấu hiệu tội phạm hoặc hành vi phạm tội, vì vậy hoạt động tố tụng hình sự liên quan rất lớn tới quyền của người bị buộc tội. Trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự, người bị buộc tội dễ bị xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp từ phía các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng.

Để tránh xảy ra oan, sai hoặc xâm phạm đến quyền của người bị buộc tội, cần phải xác lập rõ ràng các nguyên tắc về quyền của người bị buộc tội trong tố tụng hình sự, qua đó giúp các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng cũng như bản thân người bị buộc tội có được nhận thức toàn diện, đầy đủ về các quyền năng pháp lý của chủ thể bị buộc tội khi tham gia tố tụng; đồng thời làm rõ về lý luận mối quan hệ giữa quyền của người bị buộc tội với trách nhiệm buộc tội của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, giúp các chủ thể buộc tội nhận thức đầy đủ và thực hiện nghiêm túc các quyền của người bị buộc tội, đặc biệt là trong bối cảnh đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, phù hợp với những quy định mới tại chế định quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân theo Hiến pháp năm 2013 cũng như các quy định mới về chủ thể bị buộc tội trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Thạc sĩ HUỲNH TRUNG TRỰC

Hội Luật gia quận 1, TP. Hồ Chí Minh

Kỹ năng điều hành của Thẩm phán tại phiên tòa hình sự sơ thẩm

Lê Minh Hoàng