Đánh giá sự tương thích của pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh doanh bằng hoà giải ở Việt Nam với Công ước Singapore

04/07/2024 22:07 | 3 ngày trước

(LSVN) - Công ước Singapore về hòa giải là văn bản pháp lý mới đánh dấu sư phát triển của phương thức hòa giải trong giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại quốc tế. Trong bài viết, tác giả giới thiệu khái quát về Công ước này, đánh giá những điểm tương thích chưa tương thích của pháp luật Việt Nam về hòa giải thương mại đối với Công ước để từ đó đưa ra một số kiến nghị hoàn thiên pháp luật sao cho phù hợp với nội dưng của Công ước Singapore về hòa giải.

Ảnh minh hoạ. 

Đặt vấn đề

Trong bối cảnh hội nhập vả yêu cầu giải quyết tranh chấp quốc tế như hiện nay, phương thức giải quyết tranh chấp bằng hòa giải dần được khẳng định vai trò quan trọng Đã đến lúc để hòa giải thương mại quốc tế từ bỏ vai trò giải quyết tranh chấp thay thế và trở thành một trong những phương thức chính để giải quyết tranh chấp xuyên quốc gia giống như trọng tài quốc tế và tố tụng tòa án. Vì thế sự ra đời của Công ước Singapore về hòa giải được đánh giá là bước ngoặt phát triển của hòa giải thương mại quốc tế, là nền tảng cho hợp tác đa phương và thương mại quốc tế. Khi mà những nỗ lực quốc tế về hòa giải rất mạnh mẽ và sôi nổi trong nhiều năm thì Công ước đúng là một trong các giải pháp hợp tác về hòa giải. Việc đánh giá sự tương thích của pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mai bằng hoà giải ở Việt Nam với quy định của Công ước này sẽ giúp nhìn nhận khả năng tham gia Công ước của Việt Nam và góp phần hoàn thiện pháp luật về hòa giải thương mại để phù hợp hơn với yêu cầu thực tế và thông lệ quốc tế.

1. Khái quát về Công ước Singapore về hòa giải

Tiếp nối sự thành công của Công ước New York năm 1958 về công nhận và cho thi hành phán quyết trong tải nước ngoài trong việc thúc đẩy sự phát triển của phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tải, tháng 5/2014, Chính phủ Hoa Kỳ thông qua nhóm công tác II của Ủy ban luật thương mại quốc tế của Liên hợp quốc (UNCITRAL) đưa ra đề xuất xây đựng môt công ước đa phương về thi hành thỏa thuận giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế thông qua hoà giải với mong muốn khuyến khích phương thức giải quyết tranh chấp này. Quá trình họp thảo luận và đàm phán dự thảo Công ước đã có sự tham gia của 85 quốc gia thành viên của Liên hợp quốc (LHQ) và 35 tổ chức phi chính phủ. Công ước Singapore về Hòa giải có tên chính thức là “Công ước Liên Hợp quốc về các thoả thuận giải quyết quốc tế thông qua hòa giải” đã được ký kết tại Singapore ngày 7/8/2019 gồm có 46 quốc gia trong đó có nhiều đối tác thương mại lớn của Việt Nam như: Hoa Kỳ, Trung Quốc, Ấn Độ, Hàn Quốc, Malaysia...[1] Đây là một con số kỷ lục về số lượng các nước tham gia ký kết nhiều nhất trong ngày đầu tiên của một hội nghị thương mại do LHQ tổ chức và có nhiều quốc gia nữa dự kiến sẽ tiếp tục thông qua Công ước nảy trong tương lai gần. Mục tiêu chính của Công ước là thúc đẩy hòa giải như một phương thức giải quyết tranh chấp thương mai quốc tế hiệu quả, tạo điều kiên thuận lợi cho thương mại quốc tế phát triển hài hòa, qua đó góp phần thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững.

Về phạm vi áp dụng: Công ước áp dụng đối với việc ghi nhận và thi hành các thỏa thuận hòa giải quốc tế được các bên ký kết bằng văn bản là kết quả của quả trình hòa giải tranh chấp thương mai quốc tế, có sự tham gia của hòa giải viên nêu tại thời điểm ký kết: (i) ít nhất hai bên tham gia thỏa thuận có địa điểm kinh doanh tại các quốc gia khác nhau, hoặc (ii) quốc gia mà các bên tham gia thỏa thuân có địa điểm kinh doanh khác với quốc gia mà phần đáng kể các nghĩa vụ theo thỏa thuân được thực hiện hoặc quốc gia mà nội dung của thỏa thuận có mối quan hệ gắn bó nhất[2].

Về nội dung của Công ước: Công ước gồm 16 điều, trong đó: từ Điều 1 đền Điều 6 quy định các nội dung chính của Công ước: phạm vi điều chỉnh, giải thích các thuật ngữ, các nguyên tắc thi hành và viện dẫn thỏa thuận giải quyết tranh chấp thông qua hòa giải; điều kiện sử dụng thỏa thuận nêu trên làm căn cứ yêu cầu trợ giúp; căn cứ từ chối trợ giúp; quyết định của cơ quan có thẩm quyền tại quốc gia được yêu cầu trong trường hợp hiệu lực của thỏa thuân đang được xem xét tại tòa án, trọng tài hoặc cơ quan có thẩm quyền khác; từ Điều 7 đến Điều 16 quy định về mối quan hệ của Công ước với các điều ước khác; bảo lưu; trình tư thủ tục lưu chiểu, ký kết, gia nhập, sửa đổi, bãi bỏ và hiệu lực của Công ước[3];

2. Sự tương thích của pháp luật về giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải ở Việt Nam với Công ước Singapore về hỏa giải

Khuyến khích giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mai bằng các phương thức ngoài tòa án trong đó có phương thức hòa giải từ lâu đã là chủ trương, chính sách quan trọng của Đảng và Nhà nước. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 06 năm 2005 của Bộ Chính trị về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” đề ra nhiệm vụ “khuyến khích việc giải quyết một số tranh chấp thông qua thương lương, hòa giải, trọng tài”. Trong những năm gần đây, chúng ta đã có những cố gắng và nỗ lực nhất định để xây dựng căn cứ pháp lý và cơ chế thực thi cho việc giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại bằng hòa giải. Quy định mới trong Bộ Luật Tố tụng dân sự năm 2015 cùng với sự ra đời của Nghi định số 22/2017/NĐ-CP ngày 24/02/2017 của Chính phủ quy định về hòa giải thương mại chính là minh chứng cho điều đó. Đồng thời, việc xúc tiến đẩy mạnh phát triển đội ngũ hòa giải viên cũng đã được Nhà nước lưu tâm. Hiện nay chúng ta đã có đội ngũ hòa giải viên vụ việc, một số trung tâm hòa giải được cấp giấy chứng nhận, được thành lập và đi vào hoạt đông Tuy nhiên để gia nhập được Công ước Singapore thì nước ta còn vướng phải nhiều khó khan.

2.1 Những nội dung đã tương thích

Về cơ bản việc nhìn nhận bản chất của phương thức Hòa giải trong việc giải quyết các tranh chấp kinh doanh thương mại ở các quốc gia trên thế giới đều giống nhau, do đó quy định của pháp luật có nhiều điểm tương đồng là điều đương nhiên

Thứ nhất, về định nghĩa “Hòa giải thương mại”. Theo Khoản 3 Điều 2 Công ước Singapore có nêu: “Hòa giải có nghĩa là một quá trình không phân biệt cách thức được sử dụng hoặc cơ sở mà quá trình được thực hiện, theo đó các bên cố gắng đạt được một giải pháp hòa giải tranh chấp với sự hỗ trợ của người thứ ba (hòa giải viên) người có thẩm quyền đưa ra giải pháp cho các bên tham gia tranh chấp”. Tại Khoản 2 Điều 3 Nghị định 22/2017/NĐ-CP có quy định: “Hòa giải thương mai là phương thức giải quyết tranh chấp thương mại do các bên thoả thuận và được hòa giải viên thương mại làm trung gian hòa giải hỗ trợ giải quyết tranh chấp theo quy định của Nghị định này”. Như vậy, pháp luật Việt Nam đã có sư tương đồng với Công ước Singapore trong việc đưa ra định nghĩa về hòa giải. Đây là phương thức giải quyết tranh chấp ngoài tố tụng và được thực hiện dựa trên sự thỏa thuận của các bên tranh chấp thông qua sự hỗ trợ của bên thứ ba, đó là hòa giải viên. Đây là cơ sở để tạo nên những điểm tương thích khác liên quan đến bản chất của hình thức giải quyết tranh chấp nảy.

Thứ hai, về pham vi các tranh chấp được giải quyết bằng hòa giải thương mại. Pháp luật Việt Nam cũng giống như Công ước Singapore đều khẳng định: hòa giải thương mai được áp dụng đối với những tranh chấp liên quan đến hoat động thương mại, trong đó ít nhất một trong hai bên tranh chấp có hoạt động thương mại.

Thứ ba, về điều kiện giải quyết tranh chấp bằng hòa giải thương mại. Như trên đã nói, hiện nay phương thức giải quyết tranh chấp bằng hòa giải thương mai dần được lưu tâm để phát triển thành một trong những phương thức chính trong việc giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mai, không còn là phương thức thay thế như trước đây. Do đó quy định pháp luật Việt Nam hướng tới việc xây dựng những điều kiện để giải quyết tranh chấp bằng hòa giải tại khoản 2 Điều 3, Điều 6, Điều 11 của Nghị định 22/2017/NĐ-CP của Chính phủ về hòa giải thương mai, và nội dung này cũng được ghi nhận trong Công ước Singapore tại Điều 1 và khoản 2 Điều 2 của Công ước: đó là các bên phải có thỏa thuận hòa giải. Tranh chấp được giải quyết bằng hòa giải thương mại nếu các bên có thỏa thuận hòa giải. Các bên có thể thỏa thuận giải quyết tranh chấp bằng hòa giải trước, sau khi xảy ra tranh chấp hoặc tại bất cứ thời điểm nào của quá trình giải quyết tranh chấp. Về hình thức: thỏa thuận hòa giải phải được xác lập bằng hình thức văn bản.

2.2 Những nội dung chưa tương thích

Với những điểm tương thích như đã được đánh giá ở trên sẽ tạo ra những thuận lợi khi Việt Nam tham gia Công ước, tuy nhiên nhiều quy định của pháp luật Việt Nam về giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mai bằng hình thức hòa giải vẫn chưa tương thích với Công ước Singapore. Đây thực sự là vấn đề mà chúng ta cần phải lưu tâm.

Thứ nhất, liên quan đến pham vị áp đụng. Tuy rằng cả pháp luật Việt Nam và Công ước Singapore đều hướng tới áp dụng hòa giải thương mại với những tranh chấp phát sinh từ hoạt động thương mại nhưng Công ước Singapore còn loại trừ rõ những mối quan hệ sau không áp dụng giải quyết bằng hòa giải thương mai: Được kết luận để giải quyết các tranh chấp phát sinh từ mục đích cá nhân, gia đình hoặc hộ gia đình, hoặc liên quan đến gia đình, thừa kế hoặc luật lao động, hoặc đã được phê duyệt bởi hoặc kết luận trước một tòa án, hoặc có thể được thi hành như một bản án của tòa án tại một quốc gia nào đó, hoặc đã được ghi nhận và có thể được thi hành như một phán quyết trọng tài. Pháp luật Việt Nam về hòa giải thương mai không làm rõ vấn đề này. Theo quy định tại Điều 30 Bộ Luật tố tụng dân sự năm 2015: Những tranh chấp về kinh doanh, thương mại bao gồm:

(i) Tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữa cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận;

(ii) Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá nhân, tổ chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận;

(iii) Tranh chấp giữa người chưa phải là thành viên công ty nhưng có giao dịch về chuyển nhượng phần vốn góp với công ty, thành viên công ty;

(iv) Tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty, tranh chấp giữa công ty với người quản lý trong công ty trách niệm hữu hạn hoặc thành viên Hội đồng quản trị, giám đốc, tổng giám đốc trong công ty cổ phân, giữa các thènh viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, bàn giao tài sản của công ty, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty;

(v) Các tranh chấp khác về kinh doanh, thương mai, trừ trường hợp thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức khác theo quy định của pháp luật.

Như vây pháp luật Việt Nam đã không tương thích với quy định của Công ước Singapore khi không loại trừ các đối tượng giống như trong Công ước đã đề cập.

Thứ hai, hiện nay theo quy định của Bộ Luật tô tụng dân sự năm 2015, Tòa án Việt Nam chỉ công nhận thỏa thuân giải quyết tranh chấp do hòa giải viên, tổ chức hòa giải được đăng ký hoạt đông theo quy định của Nghị định số 22/2017/NĐ-CP, mà chưa có quy định về việc công nhận thoả thuận giải quyết tranh chấp thuộc phạm vi điều chỉnh của Công ước do hòa giải viên nước ngoài, tổ chức hòa giải ở nước ngoài không đăng ký hoạt động tại Việt Nam thực hiện. Bên canh đó, Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 chỉ công nhận và cho thi hành tại Việt Nam quyết định về nhân thân, hôn nhân và gia đình của cơ quan có thẩm quyền nước ngoài (không phải tòa án), nên thoả thuận giải quyết tranh chấp do hòa giải viên nước ngoài, tổ chức hòa giải ở nước ngoài không đăng ký hoạt động tại Việt Nam thực hiện không thuộc loại được công nhân và cho thi hành.

Thứ ba, về vấn đề loại trừ thẩm quyền giải quyết bằng hòa giải. Trước đây khi hòa giải vẫn chỉ được coi là phương thức giải quyết tranh chấp thay thế, các bên có quyền lựa chọn hòa giải bất cứ khi nào trong quá trình giải quyết tranh chấp. Nhưng hiện nay, quan điểm này cần phải thay đổi khi chúng ta muốn đặt vị trí của hòa giải ngang với trọng tải và tòa án. Cần phải giải quyết vấn đề thẩm quyền và mối liên hệ giữa hòa giải, trọng tải và tòa án. Nếu các bên tranh chấp vừa có thoả thuận hòa giải, vừa có thỏa thuận trọng tài thì sao? Điều này chưa được giải quyết trong pháp luật Việt Nam về hòa giải thương mai. Nhưng trong Công ước Singapore, tại Khoản 3 Điều 1 có một quy định đề cập chung loại trừ ra khối thỏa thuận hòa giải trường hợp: các thỏa thuân giải quyết đã được ghi lại và thi hành như một phán quyết trong tài. Bên cạnh đó, Công ước Singapore còn có quy định về các trường hợp từ chối giải quyết bằng hòa giải: có thể bị từ chối khi một bên dựa vào thỏa thuận hòa giải đang tìm kiếm sự cứu trợ. Một vi phạm nghiêm trong của hòa giải viên về các tiêu chuẩn áp dụng cho hòa giải viên cũng là một căn cứ hợp lý để từ chối. Pháp luật của Việt Nam cũng chưa có đề cập đến vấn để này.

Thứ tư, về hình thức của thỏa thuận hòa giải. Tại Khoản 2 Điều 2 Công ước Singapore có giải thích rõ thêm: Yêu cầu thỏa thuận giải quyết viết được đáp ứng bởi một giao tiếp điện tử nếu thông tin chứa trong đó có thể truy cập để có thể sử dụng cho tiếp theo tài liệu tham khảo. Nhưng quy định tại Điều 11 Nghị định 22/2017/NĐ-CP của Chính phủ Việt Nam về hòa giải thương mại chỉ quy định chung thỏa thuận hòa giải được xác lập bằng văn bản

3. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại bằng hòa giải ở Việt Nam để phù hợp với Công ước Singapore trong trường hợp Việt Nam muôn trở thành thành viên của Công ước

Giống như Công ước New York, Công ước Singapore đòi hỏi việc thực thi luật pháp trong nước, điều này chắc chắn sẽ có sự khác nhau giữa các khu vực tài phán. Về phía Việt Nam, Bô Ngoại giao là cơ quan chủ trì cùng với đại điện của Bộ Tư pháp, Tòa án nhân dân tối cao... tham gia các phiên đàm phán Công ước với tư cách quan sát viên. Việc tham gia Công ước giúp thúc đẩy sự phát triển của phương thức giải quyết tranh chấp bằng hỏa giải tại Việt Nam, từng bước đưa pháp luật Việt Nam tiệm cận với pháp luật quốc tế. Qua đó góp phần tăng cường giao lưu thương mai quốc tế, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh tại Việt Nam. Chính vì vậy, Chính phủ Việt Nam đã có những nỗ lực chỉ đạo các cơ quan có liên quan khảo sát và đánh giá khả năng gia nhâp Công ước của Việt Nam. Tuy nhiên về thực tiễn trong nước, Nghị định số 22/2017/NĐ-CP - cơ sở pháp lý đề thực hiện hoạt động hoà giải thương mai mới có hiệu lực 02 năm, nên chưa có đủ thời gian đánh giá về khó khăn, thuận lợi từ thực tiễn thi hành Nghị định cũng như hiệu quả của hoạt động này. Trong khi đó, Công ước là vấn đề mới, các nước vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau về giá trị pháp lý của thỏa thuận giải quyết tranh chấp. Vì vậy, cần có thời gian theo dõi, đánh giá kinh nghiêm quốc tế, đồng thời nâng cao nhận thức, chuẩn bị các điều kiện cần thiết về thể chế, nguồn lực để thực thi hiệu quả.  Trong trường hợp muốn tham gia Công ước, chúng ta có thể có một số những sửa đổi, bổ sung cơ sở pháp lý cho tương thích với nội đung của Công ước như:

- Quy định rõ hơn về phạm vi áp dụng hòa giải thương mai để giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại. Để phù hợp với Công ước, pháp luật Việt Nam cần phải loại trừ những quan hệ tranh chấp ra khỏi phạm vi áp dụng của hòa giải thương mại đó là các tranh chấp giữa các cá nhân, hô gia đình cho dù có phát sinh từ hoạt động thương mại.

- Cần phải nêu rõ các trường hợp không áp dụng hòa giải thương mại giống như nôi dung được đề cập trong Công ước. Điều này sẽ khắc phục được sự xung đột, và dễ áp dụng hơn nếu Việt Nam tham gia Công ước này.

- Bổ sung trường hợp công nhận kết quả hòa giải của các hòa giải viên nước ngoài, tổ chức hòa giải ở nước ngoài không đăng ký hoạt động tai Việt Nam.

- Bổ sung trường hợp từ chối giải quyết tranh chấp bằng hòa giải khi có thỏa thuận hòa giải

- Quy định rõ hơn về hình thức của thỏa thuận hòa giải, bổ sung thêm các hình thức khác có giá trị tương đương văn bản và điều kiện công nhân sự hợp pháp của hình thức đó.

- Làm rõ mối quan hệ của phương thức hòa giải thương mai với trong tài thương mại và toà án.

Kết luận

Với vai trò của Công ước Singapore trong việc giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại quốc tế, việc tham gia Công ước hoàn toàn phủ hợp với chủ trương, chính sách của Việt Nam về khuyến khích giải quyết tranh chấp thông qua thương lương, hòa giải. Việc đánh giá sự tương thích của pháp luật Việt Nam với nội dung của Công ước này có giá trị tham khảo quan trọng trong bối cảnh Tòa án nhân dân tối cao đang xây dựng dự thảo Luật hòa giải, đối thoại tại Tòa án. Chúng ta cần có thời gian và sự đầu tư hơn nữa để tiếp tục đánh giá vấn đề này trên cả phương diện lý luận vả thực tiễn.

= = = 

[1] Tạ Đình Tuyển, Công ước Singapore về Hoà giải - Phương thức giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế hiệu quả, Tạp chí Toà án điện tử

[2] Sundaresh Menon, “Công ước Singapore về hỏa giải - một thời đại mới xuất hiện”, Hội thảo trực tuyến của TAND tối cao ngảy 17/09/2019

[3] United Nations Convention on International Settlêmnt Agreements Resulting from Mediation

 

 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Tạ Đình Tuyên,  “Công ước Singapore về hòa giải - phương thức giải quyết tranh chấp thương mại quốc tê hiệu quả”, Tạp chí Tòa án điện tử

2. Sundaresla Menon, “Công ước Singapore về hòa giải - một thời đai mới xuất hiện”, Hội thảo trực tuyến của Toà án nhân dân tối cao ngày 17/09/2019

3. United Nations Convention on International Settlement Agreements Resulting from Mediation - Further information may be obtained from: UNCITRAL secretariat, Vienna International Centre

TRẦN THANH NGÂN

Trường Đại học Luật Hà Nội

Bàn về tội ‘Lạm quyền trong khi thi hành công vụ’ theo quy định của Bộ luật Hình sự hiện hành

 

Từ khoá : lsvn.vn LSVN