
Ngày 28/01/2021, Liên đoàn Luật sư Việt Nam đã nhận được đơn của Công ty Luật TNHH Việt Phương đề nghị lần 2 về Cục Thuế quận Đống Đa (Hà Nội) đã ban hành Quyết định xử phạt hành chính và Quyết định giải quyết khiếu nại (lần đầu) số 55667 ngày 16/12/2020 đối với Công ty Luật TNHH Việt Phương (thuộc Đoàn Luật sư TP. Hà Nội) do Chi cục Thuế quận Đống Đa ban hành.
Theo Đơn kiến nghị này, Chi cục Thuế quận Đống Đa đã loại bỏ các khoản tiền lương, phụ cấp, tiền đóng bảo hiểm xã hội cho Giám đốc - Luật sư là người lao động của Công ty được chi trả theo quy định pháp luật ra khỏi khoản chi phi kinh doanh và không được trừ khi xác định thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) của Công ty, mà dựa vào doanh thu tính toán TNDN gây thiệt hại về kinh tế cho Công ty Luật TNHH Việt Phương và cá nhân Luật sư Mai Thị Dung.
Qua nghiên cứu các nội dung trình bày trong đơn, đối chiếu các quy định của pháp luật, Liên đoàn Luật sư Việt Nam đề nghị Bộ trưởng Bộ Tài chính, Tổng cục trưởng Tổng cục Thuế xem xét một số vấn đề.
Cụ thể, Liên đoàn Luật sư Việt Nam đề nghị Bộ trưởng Bộ Tài chính và Tổng cục trưởng Tổng cục Thuế xem xét một số vấn đề vướng mắc phát sinh trong quá trình cơ quan thuế áp dụng pháp luật xác định các khoản chi phí kinh doanh và không được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) của tổ chức hành nghề Luật sư như sau:
1. Tại Điểm (i) khoản 2 Điều 9 Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) số 14/2008/QH12 ngày 03/6/2008 được sửa đổi, bổ sung Luật số 32/2013/QH13 (có hiệu lực ngày 01/01/2014) quy định về các khoản chi được trừ và không được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế có nêu rõ: “Tiền lương, tiền công của chủ doanh nghiệp tư nhân; thù lao trả cho sáng lập viên doanh nghiệp không trực tiếp tham gia điều hành sản xuất, kinh doanh; tiền lương, tiền công, các khoản hạch toán chi khác để chi trả cho người lao động nhưng thực tế không chi trả hoặc không có đơn hóa, chứng từ theo quy định của pháp luật".
Theo nội dung này cho thấy, Điều luật không quy định đối tượng là tiền lương, tiền công của chủ Công ty hay Giám đốc Công ty trách nhiệm một thành viên (TNHH MTV) (do cả nhân viên làm chủ) thuộc các khoản chi không được trừ khi xác định công việc nhập chịu thuế.
Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là trong Nghị định số 218/2013/NĐ-CP ngày 26/12/2013 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn Luật TNDN nêu trên, phạm vi điều chỉnh của quy định nêu trên đã mở rộng đối tượng không được quy định trong Luật Thuế TNDN. Tại khoản 2 Điều 9 Nghị định nói trên quy định về các khoản chi không được trừ khi xác định thuế nhập chịu thuế bao gồm: “Tiền lương, tiền công của chủ doanh nghiệp tư nhân; chủ Công ty TNHH MTV (do cá nhân làm chủ), thù lao trả cho sáng lập viên doanh nghiệp mà những người này không trực tiếp tham gia điều hành sản xuất, kinh doanh".
Nội dung này của Nghị định cũng không quy định tiền lương, tiền công của Giám đốc Công ty TNHH MTV (do cá nhân làm chủ) thuộc các tài khoản không được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế, mà chỉ quy định tiền lương, tiền công ty TNHH MTV (do cá nhân làm chủ) mà người chủ Công ty này phải thuộc nhóm người không trực tiếp tham gia điều hành sản xuất, kinh doanh thì các tài khoản chi mới không được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế.
Theo Điểm 2.6, khoản 2 Điều 4 Thông tư 96/2015/TT-BTC ngày 22/6/2015 sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư 78/2014/TT-BTC ngày 18/6/2014 của Bộ Tài chính thì đối tượng được mở rộng hơn nữa khi quy định về các khoản chi không được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế bao gồm: "Tiền lương, tiền công của chủ doanh nghiệp tư nhân, chủ công ty trách nhiệm một thành viên (do một cá nhân làm chủ); thù lao trả cho sáng lập viên, thành viên của Hội đồng thành viên, Hội đồng quản trị mà những người này không trực tiếp tham gia điều hành sản xuất, kinh doanh". Theo quy định này của Thông tư thì cũng không quy định tiền lương, tiền công của Giám đốc công ty TNHH MTV (do một cá nhân làm chủ) thuộc khoản không được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế.
Trong khi đó, theo quy định tại khoản 1 Điều 2 của Luật Bảo hiểm xã hội (BHXH): Người lao động là công dân Việt Nam thuộc diện tham gia BHXH bắt đầu, bao gồm: "Người quản lý doanh nghiệp, người quản lý điều hành hợp tác xã có hưởng tiền lương”. Theo Luật BHXH thì Giám đốc Công ty là đối tượng bắt buộc phải đóng bảo hiểm xã hội (BHXH), nếu không đóng BHXH thì được coi là vi phạm luật.
Mặt khác, theo quy định tại Điều 84 Mục 2 Chương III của Luật Doanh nghiệp năm 2015 và 2020 (có hiệu lực ngày 01/01/2021) quy định riêng về Công ty TNHH MTV nêu rõ: “Người quản lý công ty và Kiểm soát viên được hưởng lợi thù lao hoặc tiền lương và lợi ích khác theo kết quả và hiệu quả kinh doanh của công ty. Thù lao, tiền lương và lợi ích khác của người quản lý công ty và Kiểm soát viên được tính vào chi phí kinh doanh theo quy định của pháp luật về thuế, pháp luật có liên quan…”.
2. Với các quy định hướng dẫn thi hành Luật Thuế TNDN nêu trên, tinh thần chung được hiểu là tiền lương, tiền công của chủ Công ty đều thuộc các khoản chi không được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế, không phân biệt người chủ này có thuộc nhóm người trực tiếp tham gia điều hành sản xuất, kinh doanh hay không, là không phù hợp với quy định của Luật thuế TNDN. Tuy nhiên, theo quy định của Luật Doanh nghiệp thì các khoản thù lao, tiền lương và lợi ích khác của người quản lý công ty (Giám đốc) đuợc tính vào chi phí kinh doanh và theo Luật BHXH thì Giám đốc Công ty là đối tượng bắt buộc phải đóng BHXH.
Tại các quy định của Điều 80, 82, 85 Luật Doanh nghiệp năm 2020 (Điều 80, 81, 85 của Luật Doanh nghiệp năm 2015) đều phân biệt vai trò, quyền và nghĩa vụ của Giám đốc và chủ Công ty TNHH MTV (do cá nhân làm chủ), nhưng cơ quan thuế quan lại không phân biệt và đồng nhất hai chủ thể này là một để áp dụng thuế sách chính. Trong thực tế, trường hợp không phải là Giám đốc thuê mà là chủ Công ty (chủ sở hữu) kiêm nhiệm Giám đốc thì đều bị cơ quan thuế xác định là cùng một diện chủ thể và loại bỏ tiền lương, tiền công, tiền đóng bảo hiểm xã hội mà Công ty chi trả cho Giám đốc ra khỏi chi phí kinh doanh và không được tính khi xác định thu nhập chịu thuế (mặc dù Giám đốc và Chủ công ty là hai chức năng, hai trò chơi khác nhau như đã nêu trên). Nghiêm trọng hơn, trường hợp nếu Công ty (như trường hợp Công ty TNHH Luật Việt Phương) có chi trả tiền lương, tiền công hoặc đóng bảo hiểm xã hội cho Giám đốc hoặc cho chủ sở hữu công ty TNHH MTV thì bị cơ quan thuế coi đó là vi phạm chính trong lĩnh vực thuế quản lý và sẽ bị phạt vi phạm chính, bị truy thu, bị phạt TNDN.
Điều này không chỉ ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp trong quá trình hoạt động và thực hiện quyền, nghĩa vụ về thuế đối với loại hình Công ty TNHH MTV (do một cá nhân làm chủ) đang hoạt động hành nghề trên cả nước hiện nay. Theo quy định tại khoản 3, khoản 4 Điều 34 Luật Luật sư năm 2006 (sửa đổi, bổ sung năm 2012): "Luật sư làm chủ sở hữu Công ty TNHH Luật MTV là Giám đốc công ty". Nếu hiểu theo cách áp dụng Thông tư 96/2015/TT-BTC nêu trên, các khoản tiền lương, tiền công, tiền đóng BHXH cho Giám đốc / chủ công ty Luật đều bị loại khỏi chi phí kinh doanh và không được trừ khi xác định tính thuế thu nhập doanh nghiệp cho công ty.
3. Theo quan điểm của Liên đoàn Luật sư Việt Nam, đây là vấn đề bất cập trong hướng dẫn và áp dụng quy định pháp luật trong lĩnh vực quản lý thuế và xác định chi phí được trừ trong xác định thuế TNDN. Theo quy định tại khoản 2 Điều 157 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật số 80/2015/QH13 của Quốc hội thì “trong trường hợp văn bản quy phạm pháp luật có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì sử dụng văn bản có hiệu lực pháp luật cao hơn”. Như vậy, nếu văn bản quy phạm pháp luật quy định một vấn đề khác nhau, không rõ ràng dẫn đến nhiều cách hiểu thì cần căn cứ và áp dụng để văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn, cụ thể ở đây là Luật Thuế TNDN.
Đối chiếu với các quy định của Luật Thuế TNDN, Luật BHXH, Luật Doanh nghiệp, Luật Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật cho thấy dù các văn bản quy đinh điều chỉnh ở các lĩnh vực khác nhau nhưng các quy định về thuế TNDN, các khoản chi được trừ và không được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế phải đảm bảo thống nhất và đồng bộ cả về nguyên tắc lẫn quy định quy định.
Từ những điều trình bày nêu trên, Liên đoàn Luật sư Việt Nam trân trọng kính đề nghị Bộ Tài chính, Tổng cục Thuế và các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cần sớm có biện pháp rà soát, sửa đổi cho phù hợp với nguyên tắc áp dụng thống nhất các quy định của pháp luật.
Đồng thời, xuất phát từ những trường hợp vướng mắc, khiếu nại cụ thể trong thực tiễn hoạt động nghề nghiệp Luật sư, đề nghị Bộ tài chính, Tổng cục thuế có ý kiến chỉ đạo, hướng dẫn thống nhất cho các Cục thuế địa phương trong việc đưa tiền lương, tiền công, tiền đóng BHXH của Giám đốc trực tiếp điều hành Công ty TNHH Luật một thành viên vào chi phí được trừ trong việc xác định thu nhập chịu thuế TNDN nhằm bảo đảm sự công bằng trong áp dụng chính sách thuế đối với loại hình Công ty đã được quy định trong Luật Doanh nghiệp và Luật Luật sư.
PV
Một số bất cập trong cách tính thuế thu nhập doanh nghiệp đối với Công ty TNHH MTV