(LSO) - Trong bộ chính sử đầu tiên của nước ta là “Đại Việt sử ký”, do Lê Văn Hưu soạn đầu thời Trần, chưa có ghi chép về thời Họ Hồng Bàng và các vua Hùng.
Đại Việt sử ký của Lê Văn Hưu chỉ giới hạn từ thời Triệu VũĐế đến hết triều Lý. Cùng thời với Lê Văn Hưu nhưng sau khi Đại Việt sử ký hoànthành một thời gian, có một bộ sử khác là Việt sử lược, hiện chưa rõ tác giả(có giả thuyết cho là do Trần Chu Phổ soạn), có đề cập tới thời thượng cổ, vớinhững ghi chép sơ lược về nhà nước Văn Lang. Bộ sử này trước đây cũng thất lạcnhư Đại Việt sử ký, nhưng sau này, được phát hiện trong kho lưu trữ của nhàThanh và đã được vua Càn Long cho in khắc, nhờ đó, chúng ta có cơ hội đọc vàtìm hiểu.
Đầu thời Lê, Phan Phu Tiên biên soạn bổ sung vào sách của LêVăn Hưu thành bộ Đại Việt sử ký tục biên, cũng chỉ viết thêm về thời nhà Trần,Hồ và cuộc kháng chiến của Lê Lợi, cho đến khi quân Minh rút về nước.
Đến thời Lê Thánh Tông, khi Ngô Sĩ Liên biên soạn bộ Đại Việtsử ký toàn thư, mới bổ sung phần Ngoại kỷ, trong đó chép từ thời Hồng Bàng đếnhết thời kỳ Bắc thuộc (năm 938). Đây là lần đầu tiên thời kỳ mười tám vua Hùngđược đưa vào sử nước ta.
Các nhà nghiên cứu cho rằng, Ngô Sĩ Liên đã dựa vào các cổ tích, truyền thuyết, đặc biệt là quyển Lĩnh Nam chích quái có từ thời Trần để viết về phần Họ Hồng Bàng, với nhiều câu chuyện mang tính huyền thoại.
Lĩnh Nam chích quái là tập truyện ghi chép những truyền thuyếtvà cổ tích nước ta, bắt đầu bằng truyện Họ Hồng Bàng, tiếp đó là các truyện ĐổngThiên vương, Nhất Dạ Trạch, bánh chưng, dưa hấu, truyện núi Tản Viên (Sơn Tinh- Thủy Tinh)… Tuy nhiên, đến nay khó có thể xác định chính xác Lĩnh Nam chíchquái do ai viết.
Trong Kiến văn tiểu lục, Lê Quý Đôn cuối thời Lê viết rằng:“Sách Lĩnh Nam chích quái, tục truyền do Trần Thế Pháp viết, sách Thiếu vi nambản cũng nói vậy. Chúng ta không rõ Trần Thế Pháp người ở đâu. Hiện nay chỉ cònđược thấy bài nói đầu của Vũ Quỳnh”.
Trong Lời giới thiệu sách Lĩnh Nam chích quái bản in năm1960 của NXB Văn hóa, GS. Đinh Gia Khánh cho biết qua vài bản chép tay, có thểtin rằng Trần Thế Pháp có hiệu là Thúc Chi, quê ở Thạch Thất, Sơn Tây (Hà Nộingày nay). Tuy nhiên nguyên bản Lĩnh Nam chích quái đã không còn nữa, đời sauchỉ biết đến bản sách do hai danh sĩ thời Lê là Vũ Quỳnh và Kiều Phú biên soạnlại.
Vũ Quỳnh (1453-1516) người làng Mộ Trạch, huyện Đường An, HảiDương, năm 1478 tuổi đỗ tiến sĩ, làm quan đến chức Thượng thư bộ Hộ. Kiều Phúsinh năm 1450, người làng Lạp Hạ, huyện An Sơn, Sơn Tây, năm 1475 đỗ tiến sĩ.
Sách Đăng khoa bị khảo lục phần viết về Kiều Phú có ghi rằng:“Ông cùng Vũ Quỳnh người Đường An soạn Lĩnh Nam chích quái”.
Tuy nhiên trong bài tự của cuốn sách này, Vũ Quỳnh cũngkhông nhắc đến tên Trần Thế Pháp, mà chỉ viết rằng: “Những truyện chép ở đây làsử ở trong chuyện chăng, lai lịch ra sao, có từ thời nào, tên họ người đã hoànthành đều không thấy ghi rõ. Viết ra đầu tiên là những bậc tài cao học rộng thờiLý, Trần. Còn những người nhuận sắc là các bậc quân tử bác nhã hiếu cổ ngàynay”.
Vũ Quỳnh cũng là người soạn bộ sử Việt Giám thông khảo, chéptừ thời Hồng Bàng đến khi vua Lê Thái Tổ lên ngôi.
Truyện Họ Hồng Bàng trong Lĩnh Nam chích quái mở đầu bằngchuyện Đế Minh, cháu ba đời của Viêm đế Thần Nông sinh ra Đế Nghi, sau đi tuầnvề phía Nam, đến núi Ngũ Lĩnh lấy được con gái bà Vụ Tiên, sinh ra Lộc Tục. LộcTục được phong là Kinh Dương Vương, cho trị nước Xích Quỷ, lấy con gái Long Vươngở hồ Động Đình, sinh ra Sùng Lãm, hiệu là Lạc Long Quân.
Lạc Long Quân lấy Âu Cơ là con Đế Lai, đẻ ra cái bọc, cho làđiềm bất thường nên vứt ra cánh đồng. Qua sáu, bảy ngày, bọc vỡ ra trăm trứng,mỗi quả trứng nở ra một con trai. Sau đó, Lạc Long Quân và Âu Cơ chia nhau mỗingười đem năm mươi người con lên núi xuống bể, người con đầu tiên được tôn lênlàm vua, hiệu là Hùng Vương, lấy tên nước là Văn Lang, vua đời đời thế tập gọilà Hùng Vương.
Phần Kỷ Họ Hồng Bàng trong Đại Việt sử ký ngoại kỷ toàn thưcủa Ngô Sĩ Liên, ở truyện Kinh Dương Vương và Lạc Long Quân, Hùng Vương cũngchép tương tự, chỉ giảm bớt các tình tiết.
Truyện Họ Hồng Bàng trong Lĩnh Nam chích quái cho biết thêmvề phong tục nước Văn Lang thời Hùng Vương: "Hồi quốc sơ, dân không đủ đồdùng, phải lấy vỏ cây làm áo, dệt cỏ gianh làm chiếu, lấy cốt gạo làm rượu, lấycây quang lang, cây tung lư làm cơm, lấy cầm thú, cá, ba ba làm mắm, lấy rễ gừnglàm muối, cày bằng dao, trồng bằng lửa. Đất sản xuất được nhiều gạo nếp, lấy ốngtre mà thổi cơm. Bắc gỗ làm nhà để tránh hổ sói. Cắt tóc ngắn để dễ đi lạitrong rừng rú. Đẻ con ra lấy lá chuối lót cho nằm, có người chết thì giã cốilàm lệnh, người lân cận nghe tiếng đến cứu. Chưa có trầu cau, việc hôn thú giữanam nữ lấy gói đất làm đầu, sau đó mới giết trâu dê làm đồ lễ, lấy cơm nếp đểnhập phòng cùng ăn, sau đó mới thành thân".
Từ những câu chuyện trong Lĩnh Nam chích quái của Trần Thế Pháp và phần Ngoại kỷ được Ngô Sĩ Liên viết trong Đại Việt sử ký toàn thư, mà về sau, người dân nước Việt đều tâm niệm vua Hùng là Quốc tổ và tự hào nhận là “Con rồng, cháu tiên”.
Lê Tiên Long(Zing.vn)