Áp dụng thời hiệu khởi kiện với yêu cầu phản tố, có hay không?

05/10/2021 15:42 | 2 năm trước

(LSVN) - Việc có áp dụng các quy định của pháp luật về thời hiệu khởi kiện đối với yêu cầu phản tố của bị đơn hay không là vấn đề chúng tôi cho rằng không mới, khá phổ biến nhưng lại phức tạp. Thực tiễn cho thấy vẫn tồn tại các quan điểm và cách xử lý trái ngược nhau trong chính các cơ quan tiến hành tố tụng, trong giới Luật sư và những người làm công tác nghiên cứu pháp luật. Quan điểm đồng ý áp dụng thời hiệu đối với yêu cầu phản tố thì lập luận rằng, yêu cầu phản tố cũng được coi là yêu cầu khởi kiện nên cũng phải áp dụng thời hiệu giống như yêu cầu khởi kiện. Ngược lại, quan điểm phản đối áp dụng thời hiệu với yêu cầu phản tố thì cho rằng yêu cầu phản tố luôn luôn có sau yêu cầu khởi kiện, khi nào có yêu cầu khởi kiện thì mới phát sinh yêu cầu phản tố; quy định tại Điều 200 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 (BLTTDS năm 2015) về quyền yêu cầu phản tố của bị đơn cũng không có nội dung nào xác định bị đơn phải phản tố trong thời hiệu khởi kiện. Do còn cách hiểu và áp dụng các quy định pháp luật về thời hiệu khởi kiện với yêu cầu phản tố không thống nhất nên việc nghiên cứu, giải quyết vấn đề này có ý nghĩa hết sức thiết thực.

Ảnh minh họa.

Bản chất của yêu cầu phản tố

Chúng tôi cho rằng để giải quyết bất kỳ vấn đề gì đều cần phải xem xét và xuất phát từ bản chất của vấn đề đó. Chính vì vậy, việc xem xét một cách thấu đáo, kỹ lưỡng các khía cạnh pháp lý của yêu cầu phản tố có ý nghĩa rất lớn trong việc tìm ra giải pháp pháp lý cho vấn đề đã nêu.

Yêu cầu phản tố của bị đơn được quy định rải rác trong các điều luật của BLTTDS năm 2015 về quyền và nghĩa vụ của bị đơn, quyền yêu cầu phản tố của bị đơn, thủ tục yêu cầu phản tố hoặc yêu cầu độc lập… Tổng cộng có 26 lần cụm từ “yêu cầu phản tố” được đề cập trong BLTTDS năm 2015. Tuy nhiên, chúng ta không tìm thấy được bất kỳ một định nghĩa chính thức về yêu cầu phản tố. Các văn bản hướng dẫn thi hành BLTTDS năm 2015 cũng không có nội dung nào đưa ra định nghĩa về yêu cầu này.

Trở lại quá khứ, chỉ duy nhất trong nội dung của Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao hướng dẫn BLTTDS năm 2004 đưa ra được tiêu chí để nhận diện một yêu cầu có phải là yêu cầu phản tố của bị đơn hay không: “Được coi là yêu cầu phản tố của bị đơn đối với nguyên đơn, đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập nếu yêu cầu đó độc lập, không cùng với yêu cầu mà nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập yêu cầu Tòa án giải quyết”.

Theo Từ điển Hán Nôm, “phản tố” là bị cáo kiện trở lại nguyên cáo trong cùng vụ án.

Theo Từ điển Tiếng Việt, “độc lập” là riêng rẽ, là tự mình tồn tại, không phụ thuộc vào ai, vào cái gì khác; “không cùng” là không có sự đồng nhất, không có chung những điểm giống nhau.

Tìm kiếm kỹ, chúng tôi thấy trong BLTTDS năm 2015 ba điều luật có quan hệ gần gũi nhất để định nghĩa nội dung này, gồm:

Khoản 2 Điều 200 BLTTDS năm 2015 về quyền yêu cầu phản tố của bị đơn:

“…2. Yêu cầu phản tố của bị đơn đối với nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập được chấp nhận khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:

a) Yêu cầu phản tố để bù trừ nghĩa vụ với yêu cầu của nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập;

b) Yêu cầu phản tố được chấp nhận dẫn đến loại trừ việc chấp nhận một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập;

c) Giữa yêu cầu phản tố và yêu cầu của nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập có sự liên quan với nhau và nếu được giải quyết trong cùng một vụ án thì làm cho việc giải quyết vụ án được chính xác và nhanh hơn”.

Nội dung của điều khoản này nhằm phân loại và nêu lên ý nghĩa của yêu cầu phản tố. Về phân loại, yêu cầu phản tố được chia thành 02 loại mặc dù chúng ta đang thấy được liệt kê trong điều luật là 03 (1), gồm: yêu cầu phản tố để bù trừ nghĩa vụ hoặc yêu cầu phản tố dẫn đến loại trừ yêu cầu của nguyên đơn. Về ý nghĩa, yêu cầu phản tố được giải quyết trong cùng vụ án để chính xác hơn, nhanh hơn và thuận tiện hơn cho các đương sự.

Điều 202 BLTTDS năm 2015 về quy định về thủ tục yêu cầu phản tố hoặc yêu cầu độc lập như sau: “Thủ tục yêu cầu phản tố hoặc yêu cầu độc lập được thực hiện theo quy định của Bộ luật này về thủ tục khởi kiện của nguyên đơn”. Thủ tục yêu cầu phản tố được thực hiện theo thủ tục khởi kiện của nguyên đơn nghĩa là yêu cầu phản tố của bị đơn phải được gửi cho tòa án bằng đơn khởi kiện (2), phải nộp tạm ứng án phí nếu không thuộc trường hợp được miễn, rồi kèm theo đơn khởi kiện phải có tài liệu, chứng cứ chứng minh quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm… Tòa án khi thụ lý yêu cầu phản tố cũng phải kiểm tra các điều kiện như điều kiện khởi kiện đó là điều kiện về chủ thể, thẩm quyền của Tòa án, sự việc chưa được tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết bằng một bản án hoặc quyết định có hiệu lực pháp luật trừ một số trường hợp; điều kiện do pháp luật nội dung quy định hoặc các bên có thỏa thuận (3).

Khoản 6 Điều 72 BLTTDS năm 2015 quy định về quyền, nghĩa vụ của bị đơn như sau: “Trường hợp yêu cầu phản tố hoặc yêu cầu độc lập không được tòa án chấp nhận để giải quyết trong cùng vụ án thì bị đơn có quyền khởi kiện vụ án khác”. Quy định này nêu ra hướng dẫn trong trường hợp yêu cầu phản tố không được tòa án chấp nhận đưa vào giải quyết trong cùng vụ án, nhưng theo chúng tôi, đây lại là quy định thể hiện rõ nhất bản chất pháp lý của yêu cầu phản tố. Quy định cho phép bị đơn có quyền khởi kiện vụ án khác nghĩa là các nhà làm luật ngầm mặc định yêu cầu phản tố như là một yêu cầu khởi kiện. Có như thế, bị đơn mới được khởi kiện bằng một vụ án khác.

Từ các phân tích nêu trên, chúng ta có thể rút ra các đặc trưng của yêu cầu phản tố như sau:

- Là yêu cầu khởi kiện của bị đơn đối với nguyên đơn. Yêu cầu này tự bản thân nó đã là một yêu cầu khởi kiện, không phải phát sinh trên cơ sở của yêu cầu khởi kiện.

- Có thể giải quyết bằng một vụ án khác.

- Để bù trừ nghĩa vụ hoặc loại trừ yêu cầu của nguyên đơn.

- Việc giải quyết trong cùng vụ án là để nhanh hơn, chính xác hơn, thuận tiện hơn cho đương sự.

Do đã xác định được bản chất của yêu cầu phản tố là một yêu cầu khởi kiện nên các quy định về thời hiệu khởi kiện cũng phải được áp dụng đối với yêu cầu phản tố.

Nhầm lẫn giữa thời hạn thực hiện quyền phản tố với việc không áp dụng thời hiệu

Tại khoản 3 Điều 200 BLTTDS năm 2015 quy định: “Bị đơn có quyền đưa ra yêu cầu phản tố trước thời điểm mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải”. Đây là một cơ sở để những người ủng hộ cho quan điểm không áp dụng thời hiệu đối với yêu cầu phản tố dẫn chứng. Theo họ, quy định tại Điều 200 BLTTDS năm 2015 về quyền yêu cầu phản tố của bị đơn không có nội dung nào xác định bị đơn phải phản tố trong thời hiệu khởi kiện, chỉ cần yêu cầu này đưa ra trước thời điểm mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải. Chúng tôi cho rằng ở đây có sự nhầm lẫn về việc giải thích và áp dụng pháp luật. Để giải quyết một vấn đề pháp lý cần phải áp dụng tổng thể các quy định của pháp luật có liên quan điều chỉnh vấn đề đó. Có như vậy mới bảo đảm tính ổn định và thống nhất trong việc giải thích và áp dụng pháp luật, không rơi vào chuyện áp dụng máy móc.

Mặc dù BLTTDS năm 2015 không có điều khoản quy định trực tiếp về thời hiệu của yêu cầu phản tố nhưng như đã phân tích ở trên, chúng ta thấy thủ tục phản tố được thực hiện theo thủ tục khởi kiện. Như vậy, luật không có quy định trực tiếp nhưng có quy định gián tiếp, không thể nói là không có quy định.

Hơn nữa, bị đơn có quyền đưa ra yêu cầu phản tố vào bất kỳ thời điểm nào miễn trước thời điểm quy định tại khoản 3 Điều 200 BLTTDS năm 2015. Điều này hoàn toàn đúng. Nhưng đánh đồng điều này với việc không áp dụng thời hiệu với yêu cầu phản tố là có vấn đề.

Giới hạn về thời gian tại khoản 3 Điều 200 là giới hạn để bị đơn thực hiện quyền phản tố. Nhưng việc đưa ra yêu cầu phản tố trước thời điểm này chỉ mang lại cho bị đơn kết quả là tòa án chấp nhận đưa vào để giải quyết trong cùng vụ án đang thụ lý. Còn việc Tòa án chấp nhận một phần hay toàn bộ yêu cầu phản tố của bị đơn hay không thì phải xem xét nhiều yếu tố, trong đó có yếu tố về thời hiệu nếu nguyên đơn yêu cầu áp dụng thời hiệu. Cần phân biệt rõ ràng thì mới tránh được nhầm lẫn.

Tóm lại, nếu thời hiệu phản tố còn, nhưng bị đơn nộp sau thời điểm quy định tại khoản 3 Điều 200 BLTTDS năm 2015, Tòa án không chấp nhận để giải quyết trong cùng vụ án, nhưng bị đơn vẫn còn quyền khởi kiện lại. Ngược lại, thời hiệu phản tố hết, nhưng bị đơn yêu cầu trước thời điểm khoản 3 Điều 200 BLTTDS năm 2015, tòa vẫn thụ lý giải quyết trong cùng vụ án nhưng sẽ bị đình chỉ nếu nguyên đơn yêu cầu áp dụng thời hiệu.

Trường hợp không áp dụng thời hiệu với yêu cầu phản tố

Giả sử việc không áp dụng thời hiệu đối với yêu cầu phản tố là đúng và giả sử B đưa ra yêu cầu phản tố khi đã hết thời hiệu. Vậy ta sẽ có:

Trường hợp thứ nhất: A khởi kiện, B phản tố => Tòa chấp nhận giải quyết và không đình chỉ yêu cầu phản tố của B.

Trường hợp thứ hai: A không khởi kiện, B khởi kiện A (đặt trong trường hợp thứ nhất thì chính là B phản tố. Do đặt trong hoàn cảnh khác nhau nên tên khác nhau, bản chất không thay đổi) => tòa đình chỉ yêu cầu khởi kiện của B (4).

Cùng một sự việc, bản chất như nhau, chỉ khác tên gọi nhưng ở trường hợp thứ nhất không bị đình chỉ, ở trường hợp thứ hai lại bị đình chỉ, hay nói một cách khác, một sự vật vừa là A, vừa là phủ định A. Vô lý và vi phạm luật logic. Do đó, giả định không áp dụng thời hiệu với yêu cầu phản tố là sai.

Như vậy, qua việc tổng hợp, phân tích các quy định của pháp luật liên quan đến yêu cầu phản tố cũng như phản biện các quan điểm ủng hộ không áp dụng thời hiệu với yêu cầu phản tố, tác giả đã chứng minh việc áp dụng thời hiệu đối với yêu cầu phản tố phải được thực hiện như yêu cầu khởi kiện. Hy vọng, bài viết này sẽ góp phần giải quyết được các quan điểm, cách hiểu chưa thống nhất về vấn đề thời hiệu đối với yêu cầu phản tố.

(1) Chúng tôi cho rằng quy định tại khoản 2 Điều 200 BLTTDS năm 2015 là không hợp lý và rất khó hiểu. Tại điểm a, điểm b khoản 2 Điều luật này đang dùng cách phân loại theo mục đích nhưng tại điểm c thì lại không phải là cách phân loại mà là nêu lên mối quan hệ giữa yêu cầu phản tố với yêu cầu khởi kiện và ý nghĩa của nó. Như vậy là cách diễn đạt không phù hợp với logic. Hơn nữa, việc yêu cầu phản tố được tòa án chấp nhận giải quyết trong cùng một vụ án là để việc giải quyết được chính xác và nhanh hơn, thuận tiện hơn cho các đương sự. Đây là ý nghĩa chung của tất cả các loại yêu cầu phản tố được phân loại tại điểm a và điểm b khoản 2 Điều 200 BLTTDS năm 2015. Và cũng chỉ có hai loại yêu cầu phản tố bao gồm loại phản tố để bù trừ nghĩa vụ và loại phản tố dẫn đến việc loại trừ chấp nhận một phần hay toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn.

(2) Nghị quyết 01/2017/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán TANDTC ban hành một số biểu mẫu trong tố tụng dân sự không có mẫu đơn phản tố.

(3) Học viện Tòa án, Phần kỹ năng giải quyết vụ việc dân sự, Tập bài giảng cho Khóa 1, Nxb Văn hóa Thông tin, 2014.

(4) Trong phạm vi bài viết này, việc tòa án đình chỉ vì lý do thời hiệu khởi kiện đã hết phải được hiểu là đình chỉ theo yêu cầu của đương sự.

 Luật sư TRẦN MINH TUẤN

Công ty Luật TNHH MTV Phú Quý

Tội làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cho người