Ảnh minh họa.
Dự thảo Pháp lệnh Xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi cản trở hoạt động tố tụng (Pháp lệnh) gồm 04 chương, 45 điều. Cụ thể như sau:
Chương I: Những quy định chung (gồm có 08 điều, từ Điều 1 đến Điều 8) quy định về phạm vi điều chỉnh; giải thích từ ngữ; áp dụng quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính đối với hành vi cản trở hoạt động tố tụng; đối tượng bị xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi cản trở hoạt động tố tụng; các hình thức xử phạt và nguyên tắc áp dụng; mức phạt tiền, thẩm quyền phạt tiền; các biện pháp khắc phục hậu quả và nguyên tắc áp dụng; biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử lý vi phạm hành chính đối với hành vi cản trở hoạt động tố tụng.
Chương II: Hành vi cản trở hoạt động tố tụng, hình thức xử phạt và biện pháp khắc phục hậu quả (gồm có 03 Mục với 16 điều, từ Điều 9 đến Điều 24). Cụ thể:
- Mục 1: Hành vi cản trở hoạt động tố tụng hình sự, hình thức xử phạt và biện pháp khắc phục hậu quả.
Mục này có 07 điều quy định cụ thể về hành vi tố giác, báo tin về tội phạm sai sự thật; hành vi tiết lộ bí mật điều tra; hành vi vi phạm quy định về sự có mặt theo giấy triệu tập; hành vi cản trở đại diện của cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân tham gia tố tụng; hành vi cản trở hoạt động xác minh, thu thập chứng cứ; hành vi ngăn cản việc cấp, giao, nhận, thông báo hoặc không thực hiện trách nhiệm cấp, giao, chuyển, gửi, niêm yết, thông báo văn bản tố tụng; hành vi xúc phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín, xâm hại sức khỏe của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
- Mục 2: Hành vi cản trở hoạt động tố tụng dân sự, tố tụng hành chính, việc xem xét, quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án nhân dân, đưa người nghiện ma túy từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, bắt giữ tàu bay, bắt giữ tàu biển; hình thức xử phạt và biện pháp khắc phục hậu quả
Mục này có 07 điều quy định cụ thể về hành vi cố ý không có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án; hành vi cản trở đại diện của cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân tham gia tố tụng theo yêu cầu của Tòa án; hành vi cản trở hoạt động xác minh, thu thập chứng cứ của cơ quan, người có thẩm quyền; hành vi cản trở việc cấp, giao, nhận, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng của Tòa án; hành vi can thiệp vào việc giải quyết vụ án, vụ việc; hành vi xúc phạm, xâm hại đến sự tôn nghiêm, uy tín của Tòa án; xúc phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín, xâm hại sức khỏe của người có thẩm quyền hoặc những người khác thực hiện nhiệm vụ theo yêu cầu của Tòa án; hành vi đưa tin sai sự thật.
- Mục 3: Hành vi vi phạm nội quy phiên tòa, phiên họp; hành vi khác cản trở hoạt động tố tụng; hình thức xử phạt và biện pháp khắc phục hậu quả
Mục này có 02 điều quy định cụ thể về hành vi vi phạm nội quy phiên tòa, phiên họp và hành vi khác cản trở hoạt động tố tụng.
Chương III: Thẩm quyền, thủ tục xử phạt (gồm 21 điều, từ Điều 25 đến Điều 44). Theo đó, quy định cụ thể về thẩm quyền xử phạt, xác định thẩm quyền xử phạt của Tòa án nhân dân, Công an nhân dân, Bộ đội Biên phòng, Cảnh sát biển, Hải quan, Kiểm lâm, Kiểm ngư; quy định việc phân định thẩm quyền xử phạt giữa các cơ quan này; thủ tục xử phạt vi phạm hành chính; lập biên bản vi phạm hành chính; chuyển hồ sơ vụ vi phạm có dấu hiệu tội phạm để truy cứu trách nhiệm hình sự, chuyển hồ sơ vụ vi phạm để xử phạt hành chính; thi hành quyết định xử phạt và cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính; nguyên tắc, thẩm quyền, thủ tục áp dụng các biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử lý vi phạm hành chính.
Chương IV: Điều khoản thi hành (Điều 45).
Như vậy, dự thảo Pháp lệnh trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét không có quy định cụ thể đảm bảo quyền khiếu nại, khởi kiện đối với quyết định xử lý vi phạm hành chính. Trong khi đó, theo quy định tại Điều 15 Luật Xử lý vi phạm hành chính nêu rõ: Cá nhân, tổ chức bị xử lý vi phạm hành chính có quyền khiếu nại, khởi kiện đối với quyết định xử lý vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật; Cá nhân có quyền tố cáo đối với hành vi vi phạm pháp luật trong việc xử lý vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật.
Vậy những trường hợp Tòa án (trực tiếp là Chánh án hoặc Thẩm phán) ban hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi cản trở hoạt động tố tụng thì các cá nhân, tổ chức bị xử phạt thực hiện quyền khiếu nại và khởi kiện ra sao, trình tự thủ tục khiếu nại lần đầu, lần thứ hai như thế nào?
Đặc biệt là quyền khởi kiện vụ án hành chính đảm bảo về thẩm quyền, đảm bảo khách quan vô tư, hạn chế lạm quyền trong việc xử phạt vi phạm hành chính khi Pháp lệnh này có hiệu lực?
Hy vọng rằng, Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét bổ sung quy định đảm bảo quyền khiếu nại, khởi kiện đối với quyết định xử phạt vi phạm hành chính hành vi cản trở hoạt động tố tụng nhằm góp phần đảm bảo tính khả thi khi Pháp lệnh được ban hành.
Luật sư NGUYỄN HỒNG HÀ