(LSO) - Bộ Tài chính vừa trình Chính phủ dự án Nghị quyết về mức thuế bảo vệ môi trường đối với nhiên liệu bay đến hết ngày 31/12/2020. Theo đó, kiến nghị giảm 900 đồng/lít thuế bảo vệ môi trường đối với nhiên liệu bay. Mức thuế mới còn sẽ 2.100 đồng/ lít, áp dụng đến hết năm nay.
Theo thống kê của Bộ Tài chính, số thu từ thuế bảo vệ môi trường (BVMT) liên tục tăng ổn định. Số thu năm 2012 là khoảng 11.676 tỉ đồng; năm 2013 là khoảng 11.849 tỉ đồng; năm 2014 là khoảng 12.087 tỉ đồng; năm 2015 là khoảng 27.020 tỉ đồng; năm 2016 là khoảng 43.142 tỉ đồng; năm 2017 là khoảng 44.825 tỉ đồng, năm 2018 là 47.050 tỉ đồng và năm 2019 là 63.079 tỉ đồng.
Tỉ lệ thu thuế bảo vệ môi trường so với tổng thu NSNN đã tăng từ hơn 1% lên hơn 4% (năm 2019 là 4,07%). Số thu thuế bảo vệ môi trường đối với nhiên liệu bay bình quân giai đoạn 2015-2019 là 2.939 tỉ đồng/năm.
Từ tháng 12/2019, đại dịch Covid-19 bùng phát tại Trung Quốc và nhanh chóng lan rộng ra các quốc gia trên thế giới, đến nay vẫn đang tiếp tục diễn biến phức tạp. Nhiều ngành, nghề bị ảnh hưởng nghiêm trọng, đặc biệt là ngành vận tải hàng không do việc hạn chế đi lại cũng như hoạt động sản xuất, kinh doanh bị gián đoạn.
Để góp phần tháo gỡ khó khăn cho ngành hàng không nói chung và các doanh nghiệp hàng không nói riêng trước những ảnh hưởng của dịch Covid-19, Bộ Tài chính trình Chính phủ trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định mức thuế bảo vệ môi trường đối với nhiên liệu bay là 2.100 đồng/lít (bằng 70% mức thuế bảo vệ môi trường đối với nhiên liệu bay hiện hành theo quy định tại Nghị quyết số 579/2018/UBTVQH14 ngày 26/9/2018 về Biểu thuế bảo vệ môi trường).
Mức thuế này được đề xuất áp dụng đến hết năm 2020, từ ngày 1/1/2021 trở đi, mức thuế tiếp tục áp dụng theo quy định tại Nghị quyết số 579.
Bộ Tài chính phân tích, Thuế bảo vệ môi trường là loại thuế gián thu, thu vào sản phẩm, hàng hóa khi sử dụng gây tác động xấu đến môi trường nên thuế bảo vệ môi trường sẽ được chuyển vào giá thành sản phẩm, hàng hóa và người tiêu dùng là người cuối cùng chịu thuế bảo vệ môi trường.
Do vậy, với việc giảm thuế bảo vệ môi trường đối với nhiên liệu bay từ 3.000 đồng/lít xuống 2.100 đồng/lít đến hết ngày 31/12/2020, giá nhiên liệu bay chưa bao gồm thuế giá trị gia tăng giảm tương ứng là 900 đồng/lít và giá nhiên liệu bay sau thuế giá trị gia tăng giảm tương ứng là 990 đồng/lít.
Trước tình hình khó khăn của các doanh nghiệp vận tải hàng không trong giai đoạn hiện nay, bên cạnh các giải pháp khác, việc sử dụng công cụ thuế (trong đó có việc miễn, giảm thuế) cũng là một biện pháp để Chính phủ hỗ trợ giảm bớt gánh nặng tài chính cho các doanh nghiệp vận tải hàng không, góp phần giúp ngành hàng không duy trì được hoạt động kinh doanh, góp phần giảm giá thành các dịch vụ hàng không, từ đó kích thích nhu cầu di chuyển bằng đường hàng không, góp phần vực dậy ngành vận tải hàng không khỏi khủng hoảng do đại dịch Covid-19. Một số nước trên thế giới cũng đã sử dụng công cụ thuế, trong đó có thuế đối với nhiên liệu bay để hỗ trợ cho các doanh nghiệp trước dịch Covid-19
Việc giảm thuế BVMT sẽ góp phần giảm chi phí bay, gián tiếp tạo nguồn tài chính cho doanh nghiệp vận hành hoạt động, từ đó góp phần duy trì, phát triển doanh nghiệp, góp phần gia tăng nhu cầu sử dụng lao động, hạn chế tình trạng cắt giảm lao động. Về lâu dài, khi ngành hàng không vượt qua khủng hoảng và phát triển thì có thể lượng lao động trong ngành hàng không sẽ tăng lên. Tuy nhiên, mức độ tác động cụ thể đến số lượng việc làm trong ngành hàng không còn phụ thuộc vào mức độ hồi phục, phát triển của ngành hàng không dựa trên nhiều yếu tố khác như mức độ công nghệ, kỹ thuật quản trị doanh nghiệp…
Đối với ngân sách nhà nước, việc giảm mức thuế bảo vệ môi trường đối với nhiên liệu bay đồng nghĩa mức thu thuế giá trị gia tăng đối với nhiên liệu bay cũng giảm tương ứng 10% so với mức giảm thuế bảo vệ môi trường (90 đồng/lít), khiến số thu thuế bảo vệ môi trường giảm khoảng 72-80 tỷ đồng/tháng.
Đối với xã hội, việc giảm thuế bảo vệ môi trường sẽ góp phần giảm chi phí bay, gián tiếp tạo nguồn tài chính cho doanh nghiệp, góp phần duy trì, phát triển doanh nghiệp, gia tăng nhu cầu sử dụng lao động, hạn chế tình trạng cắt giảm lao động.
LSO