/ Trao đổi - Ý kiến
/ Quy định về hủy bản án sơ thẩm để xét xử lại của HĐXX phúc thẩm: Bất cập và kiến nghị

Quy định về hủy bản án sơ thẩm để xét xử lại của HĐXX phúc thẩm: Bất cập và kiến nghị

20/03/2023 15:02 |

(LSVN) - Thực tế cho thấy vi phạm về thủ tục tố tụng trong giai đoạn xét xử sơ thẩm là tất cả các trường hợp thực hiện không đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự về đưa vụ án ra xét xử, một số trường hợp cụ thể như: (1) Xác định sai tư cách người tham gia tố tụng, thiếu người tham gia tố tụng; (2) Không giao hoặc giao quyết định đưa vụ án ra xét xử cho bị cáo và những người khác dưới 10 ngày trước khi mở phiên tòa (Điều 286, Bộ luật Tố tụng Hình sự); (3) Tiến hành xét xử trong trường hợp phải hoãn phiên tòa theo quy định tại Điều 297, Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015); (4) Không giao giấy triệu tập hoặc không triệu tập những người mà theo quy định pháp luật họ phải được triệu tập đến phiên tòa; (5) Chủ tọa phiên tòa điều hành phiên tòa không đúng với trình tự, thủ tục quy định tại Bộ luật Tố tụng Hình sự; Bị cáo không được nói lời sau cùng; (6) Việc nghị án không đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự; (7) Kiểm sát viên hay thư ký Tòa án là người mà theo quy định pháp luật phải từ chối hoặc bị thay đổi.

Ảnh minh họa.

1. Các trường hợp hủy bản án sơ thẩm để xét xử lại của HĐXX phúc thẩm

Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm để xét xử lại ở cấp sơ thẩm với thành phần hội đồng xét xử mới trong những trường hợp sau đây:

Thứ nhất, Hội đồng xét xử cấp sơ thẩm không đúng thành phần mà Bộ luật Tố tụng Hình sự đã quy định.

Quy định về thành phần HĐXX tại khoản 1, Điều 254, Bộ luật Tố tụng Hình sự như sau: “1. Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm một Thẩm phán và hai Hội thẩm. Trường hợp vụ án có tính chất nghiêm trọng, phức tạp thì Hội đồng xét xử sơ thẩm có thể gồm hai Thẩm phán và ba Hội thẩm. Đối với vụ án có bị cáo về tội mà Bộ luật hình sự quy định mức cao nhất của khung hình phạt là tù chung thân, tử hình thì Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm hai Thẩm phán và ba Hội thẩm”.

Thành phần Hội đồng xét xử không đúng về số lượng và cơ cấu thành phần theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự có thể là những trường hợp sau:

- Hội đồng xét xử không đủ 05 thành viên (bao gồm hai Thẩm phán và ba Hội thẩm) khi tiến hành xét xử bị cáo với định mức cao nhất của khung hình phạt khung hình phạt chung thân, tử hình;

- Hội đồng xét xử sơ thẩm vụ án có bị cáo là người chưa đủ 18 tuổi không đúng thành phần bắt buộc phải có 1 hội thẩm là giáo viên hoặc cán bộ đoàn thanh niên hoặc người có kinh nghiệm, hiểu biết tâm lý người dưới 18 tuổi (Khoản 1 Điều 243 Bộ luật Tố tụng Hình sự);

- Thẩm phán hoặc Hội thẩm tham gia xét xử đã hết nhiệm kỳ chưa được bổ nhiệm lại.

Trường hợp HĐXX của HĐXX cấp sơ thẩm không đúng như luật định thì HĐXX phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm để xét xử lại.

Thứ hai, trường hợp vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong giai đoạn xét xử sơ thẩm.

Theo quy định tại điểm o, khoản 1, Điều 4, Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 thì vi phạm nghiêm trọng trong thủ tục tố tụng trong giai đoạn xét xử sơ thẩm là việc cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong quá trình xét xử sơ thẩm không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ các trình tự, thủ tục do Bộ luật Tố tụng Hình sự quy định và đã xâm hại nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng hoặc làm ảnh hưởng đến việc xác định sự thật khách quan, toàn diện của vụ án.

Thứ ba, người được Tòa án cấp sơ thẩm tuyên không có tội nhưng có căn cứ cho rằng người đó phạm tội.

Trong trường hợp Tòa án cấp sơ thẩm tuyên bị cáo không có tội nhưng HĐXX phúc thẩm có căn cứ cho rằng người đó có tội thì không được sửa bản án sơ thẩm mà phải hủy bản án sơ thẩm đẻ xét xử lại, bảo đảm quyền kháng cáo của bị cáo đối với việc bị tuyên là có tội. Nếu tiến hành sửa bản án cấp sơ thẩm và tuyên bị cáo có tội thì bản án phúc thẩm này đương nhiên có hiệu lực pháp luật và xem bị cáo là người có tội. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật thì đồng thời bị cáo không có quyền kháng cáo bản án phúc thẩm coi như mất đi quyền bào chữa của mình và bị xem là phạm tội. Do đó khi có căn cứ cho rằng người đó đã phạm tội, HĐXX phúc thẩm có quyền hủy bản án sơ thẩm để xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm.

Thứ tư, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt hoặc áp dụng biện pháp tư pháp đối với bị cáo không có căn cứ.

Trong trường hợp Tòa án cấp sơ thẩm miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt không có căn cứ thì HĐXX phúc thẩm không được sửa bản án sơ thẩm mà phải hủy bản án sơ thẩm để xét xử lại, bảo đảm quyền kháng cáo của bị cáo đối với việc bị áp dụng trách nhiệm hình sự, áp dụng hình phạt. Trong trường hợp áp dụng biện pháp tư pháp không có căn cứ, nếu hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy không cần thiết phải áp dụng biện pháp tư pháp thì sửa bản án sơ thẩm theo quy định tại điểm a, khoản 1, Điều 357, Bộ luật Tố tụng Hình sự chứ không cần phải hủy bản án để xét xử lại.

Thứ năm, bản án sơ thẩm có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật nhưng không thuộc trường hợp HĐXX phúc thẩm sửa bản án theo quy định tại Điều 357, Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015.

Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy bản án cấp sơ thẩm khi có căn cứ “có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật” không thể khắc phục bằng việc sửa bản án cấp sơ thẩm. Có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật của HĐXX sơ thẩm ở đây có thể được hiểu là những sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự hoặc một số luật liên quan. Đây là quy định mới của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 so với Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003, có thể nói quy định này tạo điều kiện cho HĐXX phúc thẩm khắc phục triệt để sai lầm trong áp dụng pháp luật của Tòa án cấp sơ thẩm, tạo điều kiện cho việc giải quyết vụ án nhanh chóng kịp thời đúng người, đúng tội.

2. Kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật về hủy bản án sơ thẩm để xét xử lại của HĐXX phúc thẩm

Thứ nhất, về căn cứ Hội đồng xét xử cấp sơ thẩm không đúng thành phần mà Bộ luật Tố tụng Hình sự đã quy định.

Việc hủy bản án sơ thẩm để xét xử lại theo quy định tại điểm a, khoản 2, Điều 258, Bộ luật Tố tụng Hình sự quy định: “HĐXX sơ thẩm không đúng thành phần mà Bộ luật này quy định” cũng một phần nguyên nhân xuất phát từ quy định chưa cụ thể về cơ cấu số lượng, thành phần của HĐXX sơ thẩm tại khoản 1, Điều 254, Bộ luật Tố tụng Hình sự như sau: “Trường hợp vụ án có tính chất nghiêm trọng, phức tạp thì Hội đồng xét xử sơ thẩm có thể gồm hai Thẩm phán và ba Hội thẩm”.

 Vụ án có tính chất nghiêm trọng, phức tạp là vụ án về tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng; vụ án có nhiều bị can, phạm tội có tổ chức hoặc phạm nhiều tội; vụ án liên quan đến nhiều lĩnh vực; vụ án có nhiều tài liệu, có các chứng cứ mâu thuẫn nhau cần có thêm thời gian để nghiên cứu,… Việc hiểu cụ thể như thế nào về vụ án có tính chất nghiêm trọng, phức tạp thì hiện nay vẫn chưa có văn bản nào hướng dẫn, giải thích rõ ràng.

Kiến nghị: Cần có văn bản giải thích rõ ràng thế nào được xem là “vụ án có tính chất nghiêm trọng, phức tạp” quy định tại khoản 1 Điều 254 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015. Để HĐXX phúc thẩm xác định được Tòa án cấp sơ thẩm có vi phạm về thành phần HĐXX sở thẩm hay không để làm căn cứ hủy bản án sơ thẩm để xét xử lại theo điểm a khoản 2 Điều 358 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015.

Thứ hai, về căn cứ trường hợp vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong giai đoạn xét xử sơ thẩm.

Thực tế cho thấy vi phạm về thủ tục tố tụng trong giai đoạn xét xử sơ thẩm là tất cả các trường hợp thực hiện không đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự về đưa vụ án ra xét xử, một số trường hợp cụ thể như: (1) Xác định sai tư cách người tham gia tố tụng, thiếu người tham gia tố tụng; (2) Không giao hoặc giao quyết định đưa vụ án ra xét xử cho bị cáo và những người khác dưới 10 ngày trước khi mở phiên tòa (Điều 286, Bộ luật Tố tụng Hình sự); (3) Tiến hành xét xử trong trường hợp phải hoãn phiên tòa theo quy định tại Điều 297, Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015); (4) Không giao giấy triệu tập hoặc không triệu tập những người mà theo quy định pháp luật họ phải được triệu tập đến phiên tòa; (5) Chủ tọa phiên tòa điều hành phiên tòa không đúng với trình tự, thủ tục quy định tại Bộ luật Tố tụng Hình sự; Bị cáo không được nói lời sau cùng; (6) Việc nghị án không đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự; (7) Kiểm sát viên hay thư ký Tòa án là người mà theo quy định pháp luật phải từ chối hoặc bị thay đổi.

Việc đưa ra trường hợp kể trên dựa trên thực tiễn công tác xét xử, hiện nay chưa có văn bản hướng dẫn nào xác định trường hợp nào được xem là “vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong giai đoạn xét xử sơ thẩm” làm căn cứ để HĐXX phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm để xét xử lại theo Điều 358, Bộ luật Tố tụng Hình sự.

Kiến nghị: Cần có văn bản hướng dẫn cụ thể “về vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong giai đoạn xét xử sơ thẩm” theo hướng liệt kê các vi phạm cụ thể của Tòa án cấp sơ thẩm.

Thứ ba, về căn cứ bản án sơ thẩm có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật nhưng không thuộc trường hợp HĐXX phúc thẩm sửa bản án theo quy định tại Điều 357, Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015.

Trường hợp bản án sơ thẩm đã tuyên không đúng với tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội, nhân thân bị cáo hoặc có tình tiết mới cho thấy có căn cứ hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại, xét xử lại hoặc đình chỉ vụ án thì Tòa án cấp phúc thẩm không được sửa bản án sơ thẩm, mà phải hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại, xét xử lại hoặc đình chỉ vụ án để bảo đảm các nguyên tắc tố tụng, quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo, bị hại, đương sự.

Ví dụ: A. bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm về tội "Cố ý gây thương tích"; bị hại kháng cáo hoặc viện kiểm sát kháng nghị yêu cầu xét xử A. về tội "Giết người"; nếu có căn cứ bản án sơ thẩm đã tuyên không đúng với tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội, nhân thân bị cáo hoặc có tình tiết mới cho thấy A phạm tội giết người thì Tòa án cấp phúc thẩm không được sửa bản án sơ thẩm mà phải hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại vì có căn cứ khởi tố, điều tra về tội nặng hơn tội đã tuyên trong bản án sơ thẩm (điểm a, khoản 1, Điều 358, Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015).[1]

Tuy nhiên, trường hợp A. bị khởi tố, điều tra, truy tố về tội giết người nhưng Tòa án cấp sơ thẩm kết án A. về tội "Cố ý gây thương tích"; bị hại kháng cáo hoặc viện kiểm sát kháng nghị yêu cầu xét xử A. về tội "Giết người"; nếu có căn cứ bản án sơ thẩm đã tuyên không đúng với tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội, nhân thân bị cáo hoặc có tình tiết mới cho thấy A. phạm tội "Giết người" thì Tòa án cấp phúc thẩm mới có quyền sửa bản án sơ thẩm về tội giết người vì có kháng cáo của bị hại hoặc kháng nghị của Viện Kiểm sát yêu cầu xét xử về tội mà Viện Kiểm sát đã truy tố (điểm a, khoản 2, Điều 357, Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015).

Trong trường hợp nêu trên việc sửa bản án sơ thẩm của HĐXX phúc thẩm là đúng theo quy định pháp luật nhưng quyền lợi của bị cáo lại không được đảm bảo. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật thì đồng thời bị cáo không có quyền kháng cáo bản án phúc thẩm coi như mất đi quyền bào chữa của mình và bị xem là phạm tội. Việc này dẫn đến việc oan sai mà còn vi phạm quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo mà còn có thể dẫn đến vụ án có thể phải xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm.

Kiến nghị: Cần có văn bản hướng dẫn cụ thể về “có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật”. Đồng thời hướng dẫn cụ thể các trường hợp nào có thể sửa bản án sơ thẩm, trường hợp nào phải hủy bản án sơ thẩm để xét xử lại.

NGUYỄN PHI HÙNG

Tòa án Quân sự Quân khu 4

Thời điểm nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản: Khó khăn trong việc định tội danh theo Điều 168 Bộ luật Hình sự

 

Nguyễn Hoàng Lâm