Ảnh minh họa.
Tại Kỳ họp thứ 6 chiều ngày 09/11, Quốc hội đã nghe Tờ trình, Báo cáo thẩm tra dự án Luật Tổ chức Tòa án nhân dân (sửa đổi). Trình bày Tờ trình về dự án Luật Tổ chức Tòa án nhân dân (sửa đổi), Chánh án Tòa án nhân dân Tối cao Nguyễn Hòa Bình cho biết kết cấu của dự thảo Luật gồm gồm 154 điều được bố cục thành 09 chương; trong đó, bổ sung 54 điều mới, sửa đổi 93 điều, giữ nguyên 07 điều.
Đáng chú ý, một trong những điểm mới là dự thảo Luật quy định Tòa án không có nghĩa vụ thu thập chứng cứ. Tòa án căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được Cơ quan điều tra, Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, Viện Kiểm sát thu thập; tài liệu, chứng cứ mà các bên đã thu thập, giao nộp cho Tòa án theo quy định của pháp luật tố tụng và kết quả tranh tụng để giải quyết, xét xử.
Theo Chánh án Nguyễn Hòa Bình, việc điều chỉnh này, còn 2 loại ý kiến khác nhau.
Loại ý kiến thứ nhất cho rằng Tòa án không có nghĩa vụ thu thập chứng cứ trong vụ án hình sự, hành chính, vụ việc dân sự là phù hợp và cần thiết. Đây là phương án Tòa án nhân dân Tối cao Tối cao lựa chọn.
Lý do, trong vụ án hình sự, Tòa án căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được Cơ quan điều tra, Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, Viện Kiểm sát thu thập, làm rõ tại phiên tòa và kết quả tranh tụng để xét xử.
Trong vụ việc dân sự, vụ án hành chính, Tòa án căn cứ vào tài liệu, chứng cứ mà các bên đã thu thập, giao nộp cho Tòa án theo quy định của pháp luật tố tụng và kết quả tranh tụng để xét xử.
“Tòa án thu thập chứng cứ rồi sau đó xét xử theo chứng cứ tự mình thu thập có thể sẽ không khách quan, không đánh giá đầy đủ các nguồn chứng cứ khác do các bên thu thập”, Chánh án Nguyễn Hòa Bình nhấn mạnh.
Theo Tòa án nhân dân Tối cao, việc điều chỉnh nhiệm vụ, quyền hạn thu thập tài liệu, chứng cứ của tòa án nhằm bảo đảm thực hiện đúng nguyên tắc vô tư, khách quan, để tòa án luôn giữ vai trò là trọng tài và phán xử trên cơ sở chứng cứ mà các bên đưa ra, thực sự tôn trọng và bảo đảm nguyên tắc tranh tụng, nguyên tắc “việc dân sự cốt ở đôi bên”; phù hợp với thông lệ quốc tế.
Để tạo thuận lợi cho đương sự, người tham gia tố tụng khác trong quá trình giải quyết, xét xử vụ việc dân sự, vụ án hành chính, tòa án sẽ hướng dẫn đương sự thu thập chứng cứ và lập hồ sơ vụ việc. Tòa án cũng hỗ trợ các đương sự là người yếu thế thu thập chứng cứ trong vụ việc dân sự, vụ án hành chính theo quy định của pháp luật.
Loại ý kiến thứ hai đề nghị cân nhắc kỹ quy định này vì có thể khó khăn cho việc giải quyết vụ án. Việc quy định Tòa án thu thập chứng cứ vẫn phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của nước ta hiện nay.
Trình bày báo cáo thẩm tra liên quan đến nội dung này tại dự án Luật Tổ chức Tòa án nhân dân (sửa đổi), Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp Lê Thị Nga nêu rõ, về điều chỉnh nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án trong việc thu thập tài liệu, chứng cứ (Điều 15), Ủy ban Tư pháp cơ bản tán thành với dự thảo Luật. Theo đó, đối với vụ án hình sự, việc khởi tố, điều tra, truy tố thuộc trách nhiệm của Cơ quan điều tra và Viện Kiểm sát.
Tòa án căn cứ vào tài liệu, chứng cứ do Cơ quan điều tra và Viện Kiểm sát thu thập trong hồ sơ vụ án, sau khi đã kiểm tra, làm rõ tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa để ra phán quyết về vụ án; nếu thiếu chứng cứ hoặc có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm... thì Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung.
Đối với vụ việc dân sự, vụ án hành chính, nghĩa vụ thu thập chứng cứ và chứng minh thuộc về đương sự. Tòa án không có trách nhiệm thu thập chứng cứ mà chỉ hướng dẫn, yêu cầu các đương sự thu thập chứng cứ; nếu đương sự là người yếu thế trong xã hội thì Tòa án hỗ trợ đương sự thu thập chứng cứ.
Bên cạnh đó, có ý kiến không tán thành với dự thảo Luật, với lý do theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Tố tụng hành chính thì Tòa án chỉ tiến hành thu thập chứng cứ trong trường hợp nhất định, phù hợp điều kiện kinh tế - xã hội của nước ta.
Theo đó, đối với vụ án hình sự nếu tại phiên tòa phát sinh vấn đề cần xác minh, thu thập, bổ sung chứng cứ thì Tòa án tạm ngừng phiên tòa để thực hiện; vụ việc dân sự, vụ án hành chính thì Tòa án chỉ thu thập chứng cứ nếu đương sự không thu thập được và có yêu cầu.
Việc thu thập chứng cứ ở nước ngoài thì Tòa án thông qua cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam yêu cầu cơ quan có thẩm quyền nước ngoài thu thập. Nghị quyết 27 yêu cầu: “Nghiên cứu làm rõ… những trường hợp Tòa án thu thập chứng cứ trong hoạt động xét xử”.
Do đó, Ủy ban Tư pháp đề nghị quy định những trường hợp Tòa án thu thập chứng cứ để thể chế hóa Nghị quyết 27 và phù hợp với điều kiện của nước ta.
THU HƯƠNG (t/h)
Dự thảo Luật Tổ chức Tòa án nhân dân (sửa đổi): Đề xuất Thẩm phán phải từ đủ 28 tuổi trở lên