/ Luật sư - Bạn đọc
/ Những vấn đề pháp lý trong vụ án nữ công nhân vệ sinh môi trường bị sát hại tại Cầu Giấy

Những vấn đề pháp lý trong vụ án nữ công nhân vệ sinh môi trường bị sát hại tại Cầu Giấy

09/04/2021 04:17 |

(LSVN) - Trong những trường hợp có sự nghi ngờ về khả năng nhận thức của nghi phạm, Tòa án sẽ phải căn cứ vào kết luận giám định pháp y, giám định tâm thần để ra quyết định rằng người đó sẽ được đưa vào một cơ sở điều trị chuyên khoa để bắt buộc chữa bệnh rồi mới có thể phải chịu trách nhiệm hình sự hay là sẽ hoàn toàn không phải chịu trách nhiệm hình sự.

Ảnh minh họa. 

Sáng ngày 05/4, Công an quận Cầu Giấy, Hà Nội, cho biết đang phối hợp các đơn vị nghiệp vụ Công an TP. Hà Nội điều tra, làm rõ vụ án nữ công nhân vệ sinh môi trường bị sát hại tại khu vực đường Cầu Giấy.

Trước đó, khoảng 22h đêm ngày 04/4, một nữ công nhân vệ sinh môi trường đang làm việc trước số nhà 302 đường Cầu Giấy, phường Dịch Vọng, quận Cầu Giấy thì bị một nam thanh niên bất ngờ dùng gạch đập liên tiếp đến chết. Sau khi gây án, nghi phạm bỏ trốn khỏi hiện trường.

Cơ quan điều tra bước đầu xác định nghi phạm là Lê Như Toàn (SN 1991, thường trú tổ 17, phường Trung Sơn, TP. Tam Điệp, tỉnh Ninh Bình) có biểu hiện thần kinh. Giữa nghi phạm và nạn nhân không có mâu thuẫn với nhau.

Người bị tâm thần vẫn có thể phải chịu trách nhiệm hình sự

Theo Thạc sĩ. Luật sư Nguyễn Đức Hùng, Phó Giám đốc Công ty Luật TNHH TGS cho biết, đây là vụ việc hết sức đau lòng, nạn nhân đã bị sát hại một cách dã man, khiến dư luận không khỏi bàng hoàng và xót xa. Hành vi của đối tượng là việc tước đoạt trái pháp luật tính mạng của người khác, đây là hành vi khách quan của tội “Giết người” theo quy định tại Điều 123 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 (Bộ luật Hình sự). Do đó, theo quy định tại Điều 143 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, cơ quan điều tra sẽ phải khởi tố vụ án, tiến hành điều tra, làm rõ sự thật khách quan của vụ án, cũng trách nhiệm pháp lý của đối tượng đã gây án.

Tuy nhiên, theo thông tin ban đầu thì giữa đối tượng và nạn nhân không có quen biết và không có mâu thuẫn với nhau, khi gây án thì đối tượng có biểu hiện mắc bệnh tâm thần. Do đó, theo quy định tại khoản 1 Điều 206 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, cơ quan điều tra bắt buộc phải ra quyết định trưng cầu giám định về tình trạng tâm thần của đối tượng, để xác định trước, trong và sau thời điểm sát hại nạn nhân thì đối tượng có bị mắc bệnh tâm thần hay không? Nếu có thì là bệnh gì và mức độ ảnh hưởng của bệnh lý đó đến khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của đối tượng? Qua đó, để xác định tại thời điểm sát hại nạn nhân thì đối tượng có năng lực trách nhiệm hình sự hay không? cũng như hiện tại thì đối tượng có đủ khả năng làm việc với các cơ quan tiến hành tố tụng hay không?

Căn cứ vào nội dung Kết luận giám định pháp y về tâm thần của cơ quan giám định, cơ quan tiến hành tố tụng sẽ có các hướng giải quyết như sau:

Trường hợp thứ nhất: Trong trường hợp đối tượng không bị mắc bệnh tâm thần, có đủ khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình thì đối tượng được coi là người có năng lực trách nhiệm hình sự đầy đủ, và bị coi là có lỗi trong khi thưc hiện hành vi phạm tội. Do đó, cơ quan điều tra sẽ tiến hành khởi tố bị can và điều tra, làm rõ trách nhiệm hình sự của đối tượng theo quy định của pháp luật. Trong trường hợp này, đối tượng sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội “Giết người”, với tình tiết định khung tăng nặng là phạm tội “có tính chất côn đồ”, với loại và mức hình phạt là phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình.

Trường hợp thứ hai: Nếu đối tượng có bị mắc bệnh tâm thần nhưng chưa đến mức bị mất khả năng nhận thức hoặc điều khiển hành vi. Tức là, dù đối tượng có bệnh lý tâm thần và bệnh lý này có thể có những ảnh hưởng nhất định, làm hạn chế khả năng nhận thức hoặc điều khiển hành vi của đối tượng. Tuy nhiên, đối tượng vẫn có khả năng nhận thức, suy xét, đánh giá và lựa chọn, điều khiển hành vi của mình khi thực hiện tội phạm, thì người này vẫn sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội “Giết người” như đã nêu trên. Tuy nhiên trong trường hợp này, đối tượng sẽ được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đó là: “Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình” theo quy định tại điểm q khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Trường hợp thứ ba: Nếu trong khi sát hại nạn nhân mà đối tượng bị mắc bệnh tâm thần, dẫn đến không có khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình, thì đối tượng sẽ được coi là không có năng lực trách nhiệm hình sự. Vì vậy, theo quy định tại Điều 8 và Điều 21 Bộ luật Hình sự thì hành vi của đối tượng sẽ không bị coi là tội phạm và đối tượng sẽ không phải chịu trách nhiệm hình sự. Tại Điều 21 Bộ luật Hình sự quy định: “Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự.”. Do đó, theo quy định tại Điều 230 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, cơ quan điều tra sẽ ra quyết định đình chỉ điều tra. Tuy nhiên, đối tượng vẫn có thể bị áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh theo quy định tại Điều 49 Bộ luật Hình sự.

Trong trường hợp này, người giám hộ (nếu có) của đối tượng sẽ có trách nhiệm thực hiện việc bồi thường thiệt hại cho gia đình nạn nhân theo quy định tại Điều 586 Bộ luật Dân sự năm 2015, theo đó: “Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi gây thiệt hại mà có người giám hộ thì người giám hộ đó được dùng tài sản của người được giám hộ để bồi thường; nếu người được giám hộ không có tài sản hoặc không đủ tài sản để bồi thường thì người giám hộ phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu người giám hộ chứng minh được mình không có lỗi trong việc giám hộ thì không phải lấy tài sản của mình để bồi thường”.

Luật sư Nguyễn Tiến Trung, Công ty Luật Trung Nguyễn nhận định rằng, không phải bất kỳ trường hợp nào bị tâm thần khi gây án cũng đều không phải chịu trách nhiệm hình sự. Bởi ngay tại Điều 21 Bộ luật Hình sự đã quy định rõ rằng người bị bệnh tâm thần không phải chịu trách nhiệm hình sự khi thực hiện hành vi gây nguy hiểm cho xã hội tại thời điểm đang mắc bệnh và tình trạng bệnh phải đang ở trạng thái mất khả năng nhận thức hoặc điều khiển hành vi.

Còn nếu người đó bị mắc bệnh tâm thần nhưng khi thực hiện hành vi phạm tội mà ở trong trạng thái hoàn toàn tỉnh táo và trước khi bị kết án mới mắc bệnh thì sau khi thực hiện biện pháp buộc chữa bệnh vẫn có khả năng phải chịu trách nhiệm hình sự bình thường như theo tinh thần của khoản 2 Điều 49 Bộ luật Hình sự.

Tuy nhiên, để có thể chắc chắn rằng người thực hiện hành vi phạm tội có bị tâm thần hay không thì phải tiến hành trưng cầu giám định theo khoản 1 Điều 206 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 quy định về các trường hợp bắt buộc phải trưng cầu giám định khi cần xác định: “Tình trạng tâm thần của người bị buộc tội khi có sự nghi ngờ về năng lực trách nhiệm hình sự của họ; tình trạng tâm thần của người làm chứng hoặc bị hại khi có sự nghi ngờ về khả năng nhận thức, khả năng khai báo đúng đắn về những tình tiết của vụ án”.

Trong những trường hợp có sự nghi ngờ về khả năng nhận thức của nghi phạm như thế này, Tòa án sẽ phải căn cứ vào kết luận giám định pháp y, giám định tâm thần để ra quyết định rằng người đó sẽ được đưa vào một cơ sở điều trị chuyên khoa để bắt buộc chữa bệnh rồi mới có thể phải chịu trách nhiệm hình sự hay là sẽ hoàn toàn không phải chịu trách nhiệm hình sự.

Luật sư Nguyễn Tiến Trung cho biết, có một số loại bệnh tâm thần khi mắc phải làm mất năng lực trách nhiệm hình sự hoàn toàn, nhưng lại có những loại bệnh chỉ làm mất năng lực ở một mức độ nhất định. Như vậy, để xác định một người không có năng lực trách nhiệm hình sự thì chỉ có thể phụ thuộc vào nội dung của giám định pháp y tâm thần. Việc giám định pháp y tâm thần không chỉ giúp xác định được rằng người thực hiện hành vi tội phạm có bị mắc bệnh tâm thần hay không mà còn xác định được khi thực hiện hành vi gây nguy hiểm cho xã hội thì người đó có đang ở trong trạng thái mất khả năng nhận thức hay không, nếu có thì mức độ ảnh hưởng của bệnh đã mắc là như thế nào đối với năng lực nhận thức và năng lực điều khiển hành vi của người bệnh.

Cần phải có những giải pháp phòng ngừa đồng bộ

Theo Luật sư Nguyễn Đức Hùng, hiện nay phần lớn người mắc bệnh tâm thần đang do gia đình tự giám sát và quản lý. Tuy nhiên, do các nguyên nhân khác nhau đã có nhiều người bệnh không có được sự chăm sóc, quản lý và chữa trị đầy đủ, thậm chí có người còn giấu bệnh hoặc đi lang thang, rất dễ dẫn đến việc họ thực hiện các hành vi gây nguy hiểm, đe dọa đến tài sản, sức khỏe, tính mạng của người khác, làm mất trật tự và an toàn xã hội. Do ảnh hưởng của bệnh lý nên những người mắc bệnh tâm thần có thể thực hiện những việc làm hết sức tàn ác, man rợ, dẫn đến những hậu quả rất nghiêm trọng, gây ra tâm lý bất an, lo lắng trong xã hội.

Chính vì vậy, chúng ta cần phải có những giải pháp phòng ngừa đồng bộ và hiệu quả, đặc biệt là công tác rà soát, nắm địa bàn và lập danh sách người bệnh một cách đầy đủ, kịp thời có những biện pháp quản lý phù hợp và thường xuyên, tránh bỏ lọt người bệnh ngoài xã hội; cũng như có các cơ chế, cách thức phối hợp chặt chẽ giữa gia đình, lực lượng y tế cơ sở và chính quyền địa phương, để đảm bảo tốt nhất quyền lợi của những người bệnh tâm thần, cũng như sự an toàn cho cộng đồng. Đồng thời, chúng ta cũng phải tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục kiến thức về bệnh tâm thần, từ cách nhận biết đến các phương pháp chăm sóc, chữa trị, quản lý người bệnh, phòng ngừa họ thực hiện các hành vi gây hại cho gia đình và cộng đồng. 

Luật sư Nguyễn Tiến Trung đưa ra cảnh báo về việc các đối tượng gây án đang ngày càng trẻ hóa, nhiều khi chỉ vì những lý do đơn giản cũng có thể dẫn đến chuyện gây gổ, đánh nhau. Nguyên nhân có thể đến từ nhiều phía, có thể do tiếp xúc với những văn hóa phẩm không lành mạnh, các trò chơi điện tử mang tính bạo lực, không làm chủ được cái tôi của bản thân, tuổi thơ khó khăn thiếu thốn, thiếu sự giáo dục từ người lớn, gia đình không hạnh phúc, hay được nuông chiều.

Đồng thời, Luật sư Trung cho rằng nên giảm độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự. Bởi lẽ, Bộ luật Hình sự hiện đang quy định người chưa đủ 18 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự về một số tội phạm, quy định này cũng bắt nguồn từ nguyên tắc nhân đạo của Bộ luật Hình sự, tuy nhiên đã có không ít trường hợp trẻ vị thành niên phạm tội nhận thức được độ tuổi của mình là chưa đủ để chịu trách nhiệm hình sự nên đã thực hiện hành vi phạm tội một cách man rợ.

LINH CHI

Điều kiện để sinh viên được xét và công nhận tốt nghiệp

Lê Minh Hoàng