Ảnh minh họa.
Cấu thành tội phạm
Căn cứ pháp lý
Tội phạm này được quy định tại Điều 331 Bộ luật Hình sự 2015 như sau:
“Điều 331. Tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân
1. Người nào lợi dụng các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do tín ngưỡng, tôn giáo, tự do hội họp, lập hội và các quyền tự do dân chủ khác xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
2. Phạm tội gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm”.
Khái niệm
Quyền tự do dân chủ của công dân Việt Nam được quy định tại Hiến pháp 2013. Cụ thể theo điều 24 và 25 Hiến pháp, công dân có các quyền tự do cơ bản sau:
- Quyền tự do ngôn luận: là quyền được tham gia bàn bạc, đóng góp ý kiến vào những vấn đề chung của đất nước, của xã hội;
- Quyền tự do báo chí: tự do báo chí hay tự do thông tin là một trong những quyền cơ bản của con người, nó được các quốc gia công nhận một cách phổ biến bằng văn bản luật, thậm chí Hiến pháp;
- Quyền tự do hội họp, lập hội: là một trong những quyền cơ bản của công dân được Nhà nước Việt Nam công nhận, tôn trọng trong Hiến pháp và pháp luật. Hành vi lợi dụng quyền tự do hội họp, lập hội để chống phá Nhà nước, xâm phạm công dân là việc làm trái pháp luật.
Tội phạm tại Điều 331 Bộ luật Hình sự 2015 do cá nhân thực hiện hành vi và hiện tại chưa có định nghĩa chính thống về tội phạm này. Thuật ngữ “lợi dụng” trong tội phạm này theo từ điển Tiếng Việt có nghĩa là dựa vào điều kiện thuận tiện để làm việc gì hay để mưu lợi riêng, ví dụ như việc lợi dụng dòng nước để chạy máy hoặc lợi dụng chức vụ, quyền hạn… Còn “quyền tự do dân chủ” ngoài quy định tại Điều 24 và Điều 25 Hiến pháp như đã phân tích ở trên thì ở góc độ pháp luật quốc tế được hiểu: “Trong khi hành xử những quyền tự do của mình, ai cũng phải chịu những giới hạn do luật pháp đặt ra ngõ hầu những quyền tự do của người khác cũng được thừa nhận và tôn trọng, những đòi hỏi chính đáng về đạo lý, trật tự công cộng và an lạc chung trong một xã hội dân chủ cũng được thỏa mãn" (Đại hội đồng Liên hợp quốc, Công ước quốc tế về nhân quyền, 1948). Bên cạnh đó, hành vi xâm phạm có nghĩa là hành động xấu, có ý đồ bất chính nhằm gây hại và tổn thương đến cơ thể, thanh danh cũng như nhân phẩm người khác. Việc xâm phạm đến lợi ích của người khác, tổ chức và Nhà nước đến một mức độ nào đó sẽ vi phạm pháp luật và nghiêm trọng nhất là vi phạm pháp luật hình sự.
Từ những phân tích trên, ta có thể đưa ra định nghĩa tội phạm này như sau: “Tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân là một tội phạm được quy định trong BLHS trong đó người phạm tội cố ý thực hiện các hành vi thể hiện dưới các phương thức, thủ đoạn lợi dụng các quyền tự do dân chủ như quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do tín ngưỡng, tôn giáo, tự do hội họp, lập hội và các quyền khác với mục đích xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức”.
Cấu thành tội phạm
- Khách thể của tội phạm:
Khách thể của tội phạm này là lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân. Các lợi ích này có thể là lợi ích vật chất hoặc phi vật chất. Tội phạm trên thực tế đã thực hiện các hành vi, thủ đoạn xâm phạm đến các lợi ích, quyền này một cách cụ thể gây thiệt hại cho nạn nhân. Thiệt hại ở đây có thể là vật chất hoặc phi vật chất như thiệt hại về tài sản, thiệt hại về uy tín, danh dự…của nạn nhân.
- Mặt khách quan của tội phạm:
Người thực hiện hành vi lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân có thể thực hiện một trong các hành vi như: lợi dụng các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do tín ngưỡng, tôn giáo, tự do hội họp, lập hội và các quyền tự do dân chủ khác xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân. Theo quy định, đó có thể là các dạng hành vi sau:
+ Lợi dụng quyền tự do ngôn luận xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân: công dân được phát biểu, bày tỏ ý kiến về những vấn đề của đất nước trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội... một cách công khai, rộng rãi theo quan điểm cá nhân mình, nhưng không được lợi dụng việc phát biểu, bày tỏ ý kiến để xâm phạm đến xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân.
+ Lợi dụng quyền tự do báo chí xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân: Hành vi lợi dụng quyền tự do báo chí có thể là của những người hoạt động trong các cơ quan báo chí, nhưng cũng có thể là người khác. Hành vi xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân cũng rất đa dạng, có thể là viết sai, vu khống, xuyên tạc sự thật hướng dư luận hiểu và làm theo nội dung bài viết, bài nói của mình. Thực tiễn cho thấy nhiều trường hợp chỉ vì một bài báo mà đã gây ra những hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng cho Nhà nước, tổ chức hoặc công dân. Việc xác định hành vi lợi dụng quyền tự do báo chí đã xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân hay chưa, cần phải xem xét một cách toàn diện, căn cứ vào tình hình chính trị, kinh tế, xã hội và yêu cầu bảo vệ các lợi ích đó, vì những lợi ích này chủ yếu là lợi ích phi vật chất.
+ Lợi dụng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân: là hành vi của người theo hoặc không theo một tôn giáo đã lợi dụng quyền mà pháp luật quy định để có những hành vi xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân.
+ Lợi dụng quyền tự do hội họp xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân: là hành vi mượn cớ hội họp để bàn bạc, quyết định những vấn đề mà pháp luật cấm hoặc mượn cớ hội họp để có những hành động gây rối trật tự công cộng, gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân.
+ Lợi dụng quyền tự do lập hội xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân. Quyền tự do lập hội thông thường đi liền với quyền tự do hội họp, lập hội là tiền đề của hội họp, còn hội họp là kết qủa của việc lập hội. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp hội họp và lập hội không có liên quan với nhau; có trường hợp hội họp không phải là kết quả của lập hội, ngược lại lập hội nhưng không hội họp vẫn có thể xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân. Hiện nay, trên đất nước ta có nhiều Hội như: Hội luật gia, Hội cựu chiến binh, Hội phụ nữ, Hội sinh viên, Hội chữ thập đỏ, Hội văn học nghệ thuật, Hội người mù, Hội làm vườn... Xã hội càng phát triển thì các tổ chức Hội càng được thành lập rộng khắp. Có nhiều tổ chức Hội, việc thành lập và hoạt động như là một thành viên, một tổ chức trong hệ thống chính trị, là thành viên của Mặt trận tổ quốc, nhưng cũng có nhiều Hội không phải là thành viên của mặt trận, tổ chức và hoạt động cũng không có điều lệ mà chỉ do tự phát như: Hội đồng hương, Hội đồng niên, Hội đồng môn... Tuy không được thành lập theo một quyết định của cơ quan có thẩm quyền, nhưng các hội này không bị coi là trái pháp luật.
+ Lợi dụng quyền tự do dân chủ khác xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân. Quyền tự do dân chủ khác ở đây được hiểu là ngoài các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do tín ngưỡng, tôn giáo, tự do hội họp, lập hội đã được liệt kê trong điều luật. Các quyền tự do dân chủ khác có thể được quy định trong Hiến pháp hoặc được quy định trong các Luật, Pháp lệnh, Nghị quyết của Quốc hội, Nghị quyết của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Nghị định của Chính phủ... Hậu quả của hành vi lợi dụng các quyền tự do dân chủ là những thiệt hại đã gây ra hoặc đe doạ gây ra những thiệt hại về vật chất và tinh thần cho Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân. Tội phạm hoàn thành kể từ thời điểm có hành vi khách quan nêu trên xảy ra.
- Chủ thể của tội phạm
Chủ thể của các tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân có thể là bất kì ai. Họ có thể là người Việt Nam, người nước ngoài hoặc người không quốc tịch. Người phạm tội có thể thực hiện tội phạm một mình hoặc có đồng phạm. Ngoài ra, chủ thể của tội phạm phải thỏa mãn điều điện là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự và từ đủ 16 tuổi trở lên.
- Mặt chủ quan của tội phạm:
Người phạm tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân thực hiện hành vi có lỗi cố ý. Lỗi cố ý trong tội phạm này tức là người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra hoặc thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra, tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra. Người phạm tội có thể vì động cơ, mục đích cũng khác nhau tuỳ thuộc vào hành vi lợi dụng quyền cụ thể và ý thức của người phạm tội xâm phạm đến lợi ích nào. Việc xác định động cơ, mục đích đối với tội phạm này là rất quan trọng vì nó là dấu hiệu để phân biệt với các hành vi tương tự nhưng nhằm mục đích chống chính quyền nhân dân quy định tại Chương XIII- Các tội xâm phạm an ninh quốc gia.
Về hình phạt, người nào lợi dụng các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do tín ngưỡng, tôn giáo, tự do hội họp, lập hội và các quyền tự do dân chủ khác xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. Nếu tội phạm này gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.
Bất cập và hướng hoàn thiện
Là một tội phạm tuy không xảy ra thường xuyên và bị xử lý hình sự quá nhiều như các tội xâm phạm sức khỏe hay tính mạng trong Bộ luật Hình sự và khi xử lý cũng tương đối triệt để, đúng luật, đúng người, đúng tội nhưng tội "Lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân" theo tác giả vẫn còn tồn tại những bất cập về pháp lý và thực tiễn cần được giải quyết.
Thứ nhất, theo quy định tại Điều 331 Bộ luật Hình sự 2015 thì có thể thấy tội phạm này là tội phạm có cấu thành hình thức, tức là tội phạm cấu thành mà không cần dấu hiệu hậu quả. Chỉ cần thực hiện hành vi xâm phạm đến các lợi ích, quyền của Nhà nước hoặc công dân là sẽ cấu thành tội phạm. Vấn đề đặt ra là xâm phạm đến mức độ nào sẽ phạm tội này, tức là bị xử lý hình sự? Khoản 4 Điều 3 Nghị quyết 03/2020/NQ-HĐTP quy định “lợi ích phi vật chất” tại điểm b khoản 1 các Điều 354, 358, 364, 365 và 366 của Bộ luật Hình sự là những lợi ích không phải lợi ích vật chất. Ví dụ: hối lộ bằng cách tặng thưởng, đề xuất tặng thưởng các danh hiệu, giải thưởng; bấu, cử, bổ nhiệm chức vụ; nâng điểm thi; hứa hẹn cho tốt nghiệp, cho đi học, đi thi đấu, đi biểu diễn ở nước ngoài; hối lộ tình dục… Trong tội phạm tại Điều 331 cũng có quy định lợi ích nhưng lại không được hướng dẫn.
Quy định này đã không có hướng dẫn cụ thể và rõ ràng về cả lý luận cũng như thực tiễn. Việc xác định cái gọi là “xâm phạm lợi ích” chỉ dừng lại ở mức định tính chứ chưa định lượng. Tức là nếu xem “xâm phạm lợi ích” là hành vi thì tội phạm này không cần thấy dấu hiệu hậu quả cụ thể ra sao, chỉ cần trên thực tế thực hiện hành vi xâm hại đến quyền lợi của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân là đã có thể cấu thành tội phạm, điều đó có nghĩa là việc xác định cấu thành tội phạm này rất “định tính”, dường như nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố: chủ quan có, khách quan có, rõ ràng có, mập mờ có của các cá nhân, cơ quan tiến hành tố tụng. Từ đó có thể thấy việc quy định hoặc hướng dẫn cụ thể về tội phạm này sẽ góp phần giải quyết các vấn đề trên. Và việc hướng dẫn phải làm sao đó thể hiện được mức độ định lượng có thể cân đo đong đếm được của hành vi xâm hại. Tuy nhiên có thể thấy việc hướng dẫn cụ thể về tội phạm này không phải là điều đơn giản có thể thực hiện trong một sớm một chiều mà đòi hỏi cần phải có sự nghiên cứu, đầu tư rõ ràng với sự tham gia của các chuyên gia pháp lý cũng như những người có kinh nghiệm thực tiễn.
Thứ hai, nếu hành vi xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân thì về mặt cấu thành tội phạm, các dấu hiệu pháp lý của tội này dễ bị nhầm lẫn với tội tội "Làm nhục người khác” tại Điều 155 Bộ luật Hình sự 2015. Hai tội phạm này chỉ khác nhau ở chỗ tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân tác động đến các đối tượng Nhà nước, tổ chức, cá nhân còn tội làm nhục người khác chỉ tác động đến chủ thể là cá nhân khác. Hành vi của tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân còn tội làm nhục người khác thì xâm phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác.
Ví dụ: N.P.H. đã lợi dụng sức ảnh hưởng của bản thân, sử dụng chức năng của mạng xã hội trên Internet, tổ chức nhiều buổi phát trực tiếp nội dung thông tin không kiểm chứng, liên quan đến đời tư của người khác; trong đó sử dụng những ngôn từ mang tính chất nhục mạ, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người khác. Quá trình điều tra, N.P.H. không hợp tác, coi thường pháp luật, nhiều lần tổ chức tập trung nhiều người đến nhà riêng của các cá nhân có mâu thuẫn, gây mất an ninh trật tự tại địa bàn TP. H và các địa phương khác.
Thứ ba, về kĩ thuật lập pháp, nội dung điều luật tội phạm này tại Điều 331 là chưa hợp lý. Theo luật hiện hành thì về mặt cấu thành tội phạm, tội phạm này dường như có cấu thành hình thức nghĩa là cấu thành tội phạm mà có các dấu hiệu phạm tội bắt buộc thuộc mặt khách quan của tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội. Tội phạm có cấu thành hình thức là loại tội phạm có giai đoạn phạm tội chưa đạt. Bất kì ai thực hiện hành vi được mô tả như trong quy định của khoản 1 Điều 331 thì sẽ cấu thành tội phạm này nếu đáp ứng điều kiện chủ thể. Điều luật này nên bổ sung thêm dấu hiệu hậu quả sẽ hợp lý hơn vì tính chất của loại tội phạm này không đến mức quá nguy hiểm đến nỗi chỉ cần thực hiện hành vi được mô tả trong điều luật là có thể phạm tội này.
Nếu quy định tội phạm này có thêm dấu hiệu hậu quả thì về mặt lý luận, xem như tội phạm này có cấu thành tội phạm vật, là cấu thành tội phạm mà có các dấu hiệu phạm tội bắt buộc thuộc mặt khách quan của tội phạm, cụ thể: hành vi phạm tội; hậu quả do hành vi đó gây ra; mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả do hành vi đó gây ra.
Tức là, cấu thành tội phạm vật chất đòi hỏi phải có hậu quả xảy ra, hậu quả này phải xuất phát từ hành vi vi phạm pháp luật. Ví dụ đối với tội giết con mới đẻ thì người phạm tội phải thực hiện hành vi giết đứa bé là con đẻ của mình và hậu quả phải là đứa bé chết. Mối quan hệ nhân quả trong trường hợp này là cái chết của đứa bé là do hành vi giết con của người mẹ. Việc định tội danh các tội phạm có cấu thành tội phạm vật chất thường dễ hơn so với các tội có cấu thành hình thức. Theo đó, việc mô tả các dấu hiệu định tội tại khoản 1 nên được sửa lại như sau:
“1. Người nào lợi dụng các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do tín ngưỡng, tôn giáo, tự do hội họp, lập hội và các quyền tự do dân chủ khác xâm phạm lợi ích của Nhà nước; quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, gây ra hậu quả là sự thiệt hại nghiêm trọng về vật chất hoặc phi vật chất thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”.
Như vậy có thể thấy, tác giả thêm cụm từ “gây ra hậu quả là sự thiệt hại nghiêm trọng về vật chất hoặc phi vật chất” vào khoản 1, Điều 331 tương ứng với dấu hiệu hậu quả trong cấu thành tội phạm như đã phân tích ở trên. Các hậu quả này sẽ được hướng dẫn cụ thể bằng các văn bản hướng dẫn pháp luật hoặc các văn bản hướng dẫn nghiệp vụ.
Tài liệu tham khảo 1. Hội đồng thẩm phán Tòa án Nhân dân tối cao (2020), Nghị quyết 03/2020/NQ-HĐTP hướng dẫn quy định áp dụng một số quy định của BLHS trong xét xử các tội phạm tham nhũng và chức vụ; 2. Quốc hội (2013), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, ngày 28/11/2013; 3. Quốc hội (2015), Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 ngày 27/11/2015 được sửa đổi, bổ sung bởi luật số 12/2017/QH14 ngày 20/06/2017; 4. Trường ĐH Luật TPHCM (2016), Giáo trình luật Hình sự Việt Nam – Phần các tội phạm, quyển 2, NXB. Hồng Đức, 391; 5. Trường ĐH Luật TPHCM (2021), Giáo trình luật Hình sự Việt Nam – Phần chung, NXB. Hồng Đức, 93; |
NGUYỄN THỊ CẨM TÚ – ĐẶNG ĐÌNH THÁI
Tòa án Quân sự Khu vực Quân khu 4