TRỰC CHỦ NHẬT + THỨ 2

28/10/2022 03:14 | 1 năm trước

SÁNG CHỦ NHẬT 

1. Những đối tượng người cao tuổi được hưởng chính sách trợ cấp xã hội hàng tháng

(LSVN) - Đối tượng nào trong số những người cao tuổi được hưởng chính sách trợ cấp xã hội hàng tháng?

Ảnh minh họa.

Chính sách hàng tháng dành cho người cao tuổi được quy định tại Nghị định 146/2018/NĐ-CP, Nghị định 20/2021/NĐ-CP và Luật Người cao tuổi 2009.

Đối tượng người cao tuổi được hưởng chính sách trợ cấp xã hội hàng tháng:

Căn cứ theo quy định tại khoản 5 Điều 5 Nghị định 20/2021/NĐ-CP quy định về trường hợp người cao tuổi được hưởng chính sách trợ cấp xã hội hàng tháng cụ thể như sau:

- Người cao tuổi thuộc diện hộ nghèo, không có người có nghĩa vụ và quyền phụng dưỡng hoặc có người có nghĩa vụ và quyền phụng dưỡng nhưng người này đang hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng;

- Người cao tuổi từ đủ 75 tuổi đến 80 tuổi thuộc diện hộ nghèo, hộ cận nghèo không thuộc diện quy định ở điểm a khoản 5 Điều 5 Nghị định 20/2021/NĐ-CP đang sống tại địa bàn các xã, thôn vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi đặc biệt khó khăn;

- Người từ đủ 80 tuổi trở lên không thuộc diện quy định tại điểm a khoản 5 Điều 5 Nghị định 20/2021/NĐ-CP mà không có lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội hàng tháng, trợ cấp xã hội hàng tháng;

- Người cao tuổi thuộc diện hộ nghèo, không có người có nghĩa vụ và quyền phụng dưỡng, không có điều kiện sống ở cộng đồng, đủ điều kiện tiếp nhận vào cơ sở trợ giúp xã hội nhưng có người nhận nuôi dưỡng, chăm sóc tại cộng đồng.

Đối tượng người cao tuổi được hưởng chính sách hỗ trợ bảo hiểm y tế:

Đối với quy định về đối tượng người cao tuổi được hưởng chính sách hỗ trợ bảo hiểm y tế thì tại Điều 8 Nghị định 146/2018/NĐ-CP. Theo đó, người cao tuổi được hưởng chính sách hỗ trợ bảo hiểm y tế bao gồm người thuộc diện hưởng trợ cấp bảo trợ xã hội hằng tháng theo quy định của pháp luật về người cao tuổi, người khuyết tật, đối tượng bảo trợ xã hội.

Đối tượng người cao tuổi được hưởng chính sách ưu tiên khám bệnh, chữa bệnh:

Tại Điều 12 Luật Người cao tuổi 2009 quy định về việc ưu tiên khám bệnh, chữa bệnh cho người cao tuổi như sau:

- Việc ưu tiên khám bệnh, chữa bệnh cho người cao tuổi được thực hiện như sau:

+ Người từ đủ 80 tuổi trở lên được ưu tiên khám trước người bệnh khác trừ bệnh nhân cấp cứu, trẻ em dưới 6 tuổi, người khuyết tật nặng;

+ Bố trí giường nằm phù hợp khi điều trị nội trú.

- Các bệnh viện, trừ bệnh viện chuyên khoa nhi, có trách nhiệm sau đây:

+ Tổ chức khoa lão khoa hoặc dành một số giường để điều trị người bệnh là người cao tuổi;

+ Phục hồi sức khoẻ cho người bệnh là người cao tuổi sau các đợt điều trị cấp tính tại bệnh viện và hướng dẫn tiếp tục điều trị, chăm sóc tại gia đình;

+ Kết hợp các phương pháp điều trị y học cổ truyền với y học hiện đại, hướng dẫn các phương pháp chữa bệnh không dùng thuốc ở tuyến y tế cơ sở đối với người bệnh là người cao tuổi.

- Nhà nước khuyến khích tổ chức, cá nhân khám bệnh, chữa bệnh miễn phí cho người cao tuổi.

Đối tượng người cao tuổi được hưởng chính sách chúc thọ, mừng thọ

Căn cứ theo quy định tại Điều 21 Luật Người cao tuổi 2009 quy định về chúc thọ, mừng thọ người cao tuổi như sau:

- Người thọ 100 tuổi được Chủ tịch nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam chúc thọ và tặng quà.

- Người thọ 90 tuổi được Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương chúc thọ và tặng quà.

- Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn phối hợp với Hội người cao tuổi tại địa phương, gia đình của người cao tuổi tổ chức mừng thọ người cao tuổi ở tuổi 70, 75, 80, 85, 90, 95 và 100 tuổi trở lên vào một trong các ngày sau đây: Ngày người cao tuổi Việt Nam; Ngày Quốc tế người cao tuổi; Tết Nguyên đán; Sinh nhật của người cao tuổi.

Kinh phí thực hiện quy định tại Điều này do ngân sách nhà nước bảo đảm và nguồn đóng góp của xã hội.

VĂN QUANG

Một số bất cập và kiến nghị hoàn thiện về hình phạt tử hình theo pháp luật Việt Nam

2. Trường hợp nào không xử phạt vi phạm hành chính về thuế, hóa đơn?

(LSVN) – Theo quy định của pháp luật hiện hành, những trường hợp nào không xử phạt vi phạm hành chính về thuế, hóa đơn?

Ảnh minh họa.

Nghị định 125/2020/NĐ-CP quy định về xử phạt vi phạm hành chính thuế, hóa đơn. Trong đó, tại Điều 9 Nghị định quy định về những trường hợp không xử phạt vi phạm hành chính về thuế, hóa đơn.

Cụ thể, không xử phạt vi phạm hành chính về thuế, hóa đơn đối với các trường hợp không xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính.

Người nộp thuế chậm thực hiện thủ tục thuế, hóa đơn bằng phương thức điện tử do sự cố kỹ thuật của hệ thống công nghệ thông tin được thông báo trên Cổng thông tin điện tử của cơ quan thuế thuộc trường hợp thực hiện hành vi vi phạm do sự kiện bất khả kháng quy định tại khoản 4 Điều 11 Luật Xử lý vi phạm hành chính.

Không xử phạt vi phạm hành chính về thuế, không tính tiền chậm nộp tiền thuế đối với người nộp thuế vi phạm hành chính về thuế do thực hiện theo văn bản hướng dẫn, quyết định xử lý của cơ quan thuế, cơ quan nhà nước có thẩm quyền liên quan đến nội dung xác định nghĩa vụ thuế của người nộp thuế (kể cả các văn bản hướng dẫn, quyết định xử lý được ban hành trước ngày Nghị định này có hiệu lực), trừ trường hợp thanh tra, kiểm tra thuế tại trụ sở người nộp thuế chưa phát hiện sai sót của người nộp thuế trong việc khai, xác định số tiền thuế phải nộp hoặc số tiền thuế được miễn, giảm, hoàn nhưng sau đó hành vi vi phạm hành chính về thuế của người nộp thuế bị phát hiện.

Không xử phạt vi phạm hành chính về thuế đối với trường hợp khai sai, người nộp thuế đã khai bổ sung hồ sơ khai thuế và đã tự giác nộp đủ số tiền thuế phải nộp trước thời điểm cơ quan thuế công bố quyết định kiểm tra thuế, thanh tra thuế tại trụ sở người nộp thuế hoặc trước thời điểm cơ quan thuế phát hiện không qua thanh tra, kiểm tra thuế tại trụ sở của người nộp thuế hoặc trước khi cơ quan có thẩm quyền khác phát hiện.

Không xử phạt hành vi vi phạm thủ tục thuế đối với cá nhân trực tiếp quyết toán thuế thu nhập cá nhân chậm nộp hồ sơ quyết toán thuế thu nhập cá nhân mà có phát sinh số tiền thuế được hoàn; hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh đã bị ấn định thuế theo quy định tại Điều 51 Luật Quản lý thuế.

Không xử phạt hành vi vi phạm về thời hạn nộp hồ sơ khai thuế trong thời gian người nộp thuế được gia hạn nộp hồ sơ khai thuế đó.

PHƯƠNG HOA

Một số bất cập và kiến nghị hoàn thiện về hình phạt tử hình theo pháp luật Việt Nam

3. Quy định về tạm trú, lưu trú trong khu công nghiệp

(LSVN) - Đối với chuyên gia, người lao động là người nước ngoài, thực hiện tạm trú theo quy định của pháp luật về nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam.

Ảnh minh họa.

Đây là một trong những quy định đáng chú ý tại Nghị định 35/2022/NĐ-CP quy định về quản lý khu công nghiệp và khu kinh tế. Theo đó, tại Điều 25 Nghị định quy định về tạm trú, lưu trú trong khu công nghiệp.

Cụ thể, trong khu công nghiệp không có nơi thường trú theo quy định của pháp luật về cư trú.

Chuyên gia, người lao động được phép tạm trú, lưu trú ở cơ sở lưu trú tại khu công nghiệp để phục vụ hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp và thực hiện theo quy định sau đây:

- Đối với chuyên gia, người lao động là người Việt Nam thì thực hiện tạm trú, lưu trú theo quy định của pháp luật về cư trú;

- Đối với chuyên gia, người lao động là người nước ngoài thì thực hiện tạm trú theo quy định của pháp luật về nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam.

Cơ sở lưu trú được xây dựng tại phần diện tích đất dịch vụ của khu công nghiệp; bảo đảm khoảng cách an toàn về môi trường theo quy định của pháp luật về xây dựng và quy định khác của pháp luật có liên quan; bảo đảm an ninh, trật tự và không ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp trong khu công nghiệp.

Trường hợp bất khả kháng do ảnh hưởng trực tiếp của thiên tai, thảm họa môi trường, hỏa hoạn, dịch bệnh, chiến tranh, biểu tình, bạo loạn hoặc các trường hợp khẩn cấp khác, chuyên gia, người lao động được phép lưu trú ở doanh nghiệp, ở lại doanh nghiệp tại khu công nghiệp theo quy định sau đây:

- Đối với chuyên gia, người lao động là người Việt Nam được phép lưu trú ở doanh nghiệp tại khu công nghiệp theo quy định của pháp luật về cư trú;

- Đối với chuyên gia, người lao động là người nước ngoài được phép ở lại doanh nghiệp tại khu công nghiệp trong thời gian ít hơn 30 ngày và phải thực hiện việc khai báo tạm trú theo quy định của pháp luật về nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam.

Nghị định này có hiệu lực từ ngày 15/7/2022. Nghị định số 82/2018/NĐ-CP ngày 22/5/2018 của Chính phủ quy định về quản lý khu công nghiệp và khu kinh tế hết hiệu lực kể từ ngày Nghị định này có hiệu lực, trừ trường hợp quy định tại điểm a khoản 3 và khoản 4 Điều 74 của Nghị định này.

MAI HUỆ

Một số bất cập và kiến nghị hoàn thiện về hình phạt tử hình theo pháp luật Việt Nam

4. 4 nhiệm vụ trọng tâm và đột phá phát triển quốc gia

(LSVN) - Đây là một trong những nôi dung đáng chú ý tại Nghị quyết số 138/NQ-CP ngày 25/10/2022 về Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050.

Ảnh minh họa.

Theo đó, Nghị quyết nêu rõ 4 nhiệm vụ trọng tâm và đột phá phát triển quốc gia gồm: 

- Hình thành cơ bản bộ khung kết cấu hạ tầng quốc gia, tập trung vào hạ tầng giao thông, năng lượng, đô thị, hạ tầng số, bảo vệ môi trường, thủy lợi, phòng chống thiên tai, thích ứng với biến đổi khí hậu và hạ tầng văn hóa, xã hội.

- Đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế và không gian phát triển, bảo đảm nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả. Ưu tiên phát triển một số ngành, lĩnh vực có tiềm năng, lợi thế và còn dư địa lớn để làm động lực cho tăng trưởng và nâng cao tính tự chủ của nền kinh tế.

- Phát triển các vùng động lực, cực tăng trưởng quốc gia quan trọng để hình thành các đầu tàu lôi kéo sự phát triển của quốc gia. Lựa chọn một số địa điểm, đô thị, vùng có lợi thế đặc biệt để xây dựng trung tâm kinh tế, tài chính, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt với thể chế, cơ chế, chính sách đặc thù, vượt trội có tính đột phá, có khả năng cạnh tranh quốc tế cao.  Đồng thời có cơ chế, chính sách phù hợp phát triển khu vực vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo để góp phần ổn định chính trị, giữ vững quốc phòng, an ninh.

- Hình thành và phát triển các hành lang kinh tế theo trục Bắc - Nam và Đông - Tây kết nối các cảng biển, cảng hàng không, cửa khẩu quốc tế, đầu mối giao thương lớn, các đô thị, trung tâm kinh tế, cực tăng trưởng. Phát triển các vành đai công nghiệp - đô thị - dịch vụ tại các vùng động lực, vùng đô thị lớn.

Bên cạnh đó, Nghị quyết nêu rõ, tổ chức không gian phát triển theo 06 vùng như sau:

- Vùng trung du và miền núi phía bắc, gồm 14 tỉnh: Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Giang, Phú Thọ, Thái Nguyên, Bắc Kạn, Tuyên Quang, Lào Cai, Yên Bái, Lai Châu, Sơn La, Điện Biên và Hoà Bình. Vùng trung du và miền núi phía bắc chia thành 02 tiểu vùng Đông Bắc và Tây Bắc.

- Vùng đồng bằng sông Hồng, gồm 11 tỉnh, thành phố: Hà Nội, Hải Phòng, Hải Dương, Hưng Yên, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Thái Bình, Nam Định, Hà Nam, Ninh Bình và Quảng Ninh.

- Vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung, gồm 14 tỉnh, thành phố: Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hoà, Ninh Thuận và Bình Thuận. Vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung chia thành 02 tiểu vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải Nam Trung Bộ.

- Vùng Tây Nguyên, gồm 5 tỉnh: Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông và Lâm Đồng.

- Vùng Đông Nam Bộ, gồm 6 tỉnh, thành phố: Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu, Bình Dương, Bình Phước, Tây Ninh.

- Vùng đồng bằng sông Cửu Long, gồm 13 tỉnh, thành phố: Thành phố Cần Thơ, Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Trà Vinh, Vĩnh Long, An Giang, Đồng Tháp, Kiên Giang, Hậu Giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu và Cà Mau.

Nghị quyết cũng nêu cụ thể định hướng: Phát triển không gian kinh tế - xã hội; phát triển không gian biển; sử dụng đất quốc gia; khai thác và sử dụng vùng trời; liên kết vùng; phát triển hệ thống đô thị và nông thôn quốc gia;...

DUY ANH

Một số bất cập và kiến nghị hoàn thiện về hình phạt tử hình theo pháp luật Việt Nam

5. Cựu Bí thư Tỉnh ủy Đồng Nai Trần Đình Thành đối mặt với chế tài như thế nào?

(LSVN) - Vừa qua, Cơ quan Cảnh sát Điều tra Bộ Công an đã bắt tạm giam ông Trần Đình Thành, cựu Bí thư Tỉnh ủy Đồng Nai để điều tra về tội "Nhận hối lộ" liên quan vụ án xảy ra tại Bệnh viện Đa khoa Đồng Nai và Công ty AIC. Vậy, trong vụ án này, cựu Bí thư Tỉnh ủy Đồng Nai Trần Đình Thành đối mặt với chế tài như thế nào?

Ảnh minh họa.

Dưới góc độ pháp lý, theo Tiến sĩ, Luật sư Đặng Văn Cường, Trưởng Văn phòng Luật sư Chính pháp cho biết, đối với tội "Nhận hối lộ" thì cơ quan điều tra phải chứng minh hai vấn đề: Thứ nhất là phải chứng minh bị can đã nhận tiền, tài sản là lợi ích vật chất hoặc lợi ích phi vật chất của người đưa hối lộ; thứ hai là phải chứng minh việc nhận tiền, lợi ích vật chất hoặc phi vật chất đó là có sự thỏa thuận để thực hiện hoặc không thực hiện công việc theo yêu cầu của người đưa hối lộ. 

Tòa án chỉ có thể kết tội đối với bị can nếu như kết quả điều tra, truy tố, xét xử có căn cứ cho thấy bị can đã nhận tiền, tài sản, lợi ích vật chất hoặc lợi ích phi vật chất của người đưa hối lộ để thực hiện một công việc theo yêu cầu của người đưa hối lộ.

Với tội "Nhận hối lộ" theo quy định tại Điều 354 Bộ luật Hình sự thì hình phạt rất nghiêm khắc, hình phạt cao nhất có thể là tù chung thân hoặc tử hình nếu như giá trị tài sản nhận hối lộ từ 1.000.000.000 đồng trở lên. Để khuyến khích hành vi đấu tranh phòng chống tham nhũng, làm căn cứ đấu tranh với hành vi nhận hối lộ thì Bộ luật Hình sự có quy định: Người bị ép buộc đưa hối lộ mà chủ động khai báo trước khi cơ quan chức năng phát hiện thì được miễn trách nhiệm hình sự và được trả lại toàn bộ tài sản đưa hối lộ.

Luật sư Cường phân tích thêm: "Theo quy định của pháp luật, trong trường hợp khởi tố cả người đưa hối lộ và người nhận hối lộ thì tài sản nhận hối lộ sẽ bị thu hồi để xung công quĩ nhà nước. Nếu tài sản này được chuyển hóa thành tài sản khác qua các giao dịch dân sự hoặc qua hoạt động kinh doanh để che giấu nguồn gốc tài sản do phạm tội mà có thì người vi phạm còn bị xử lý thêm một tội nữa là tội "Rửa tiền".

Những người biết rõ hành vi đưa hối lộ, nhận hối lộ mà không ngăn cản, không tố giác tội phạm, ngược lại còn thực hiện hành vi giúp sức, xúi giục hành vi đưa hối lộ, nhận hối lộ thì những người này cũng sẽ bị xử lý hình sự về tội "Không tố giác tội phạm" hoặc bị xử lý với vai trò đồng phạm giúp sức, xúi giục đối với tội "Đưa hối lộ", tội "Nhận hối lộ" theo quy định của pháp luật. Cơ quan điều tra sẽ tiếp tục làm rõ trong quá trình điều tra vụ án để giải quyết vụ án triệt để, công bằng, đúng pháp luật".

"Đây là vụ án phức tạp, có liên quan đến nhiều bị can, đặc biệt là các bị can là người có chức vụ, có địa vị xã hội và việc thực hiện hành vi phạm tội rất tinh vi. Do đó, cơ quan điều tra cần thận trọng trong việc thu thập, đánh giá chứng cứ, trên cơ sở tuân thủ các quy định của pháp luật về tố tụng hình sự đảm bảo yếu tố khách quan, công bằng, đúng pháp luật để xử lý đúng người, đúng tội, không oan sai và cũng không bỏ lọt tội phạm, đảm bảo hiệu quả trong việc thực hiện mục tiêu đấu tranh phòng chống tham nhũng trong giai đoạn hiện nay", Luật sư Cường nói.

TIẾN HƯNG

Một số bất cập và kiến nghị hoàn thiện về hình phạt tử hình theo pháp luật Việt Nam

6.  Hơn 87.000 vụ lừa đảo qua mạng được ghi nhận tại Việt Nam

(LSVN) - Theo Liên minh chống lừa đảo toàn cầu (GASA), Việt Nam hiện là quốc gia có tỷ lệ lừa đảo qua mạng cao. Số vụ lừa đảo tại Việt Nam hiện có tỷ lệ 0,89 vụ/1.000 dân, với hơn 87.000 vụ lừa đảo được ghi nhận.

Ảnh minh họa.

Liên minh chống lừa đảo toàn cầu (GASA) mới đây đã công bố một báo cáo về tình trạng lừa đảo trực tuyến trên toàn cầu. Theo báo cáo này, số vụ lừa đảo trực tuyến đang bùng nổ mạnh thời gian gần đây. Cụ thể, số vụ lừa đảo trực tuyến trên toàn cầu trong năm 2021 là 266 triệu vụ, tăng 90%. Khoảng 50 tỷ USD của người dùng toàn cầu đã rơi vào tay những kẻ lừa đảo trong năm ngoái. Tuy vậy, báo cáo đánh giá đây chỉ là phần nổi của tảng băng chìm, bởi có khoảng 7% nạn nhân của các vụ lừa đảo trực tuyến trình báo với chính quyền.

Trong đó, theo GASA, Việt Nam hiện là quốc gia có tỷ lệ lừa đảo qua mạng cao. Số vụ lừa đảo tại Việt Nam hiện có tỷ lệ 0,89 vụ/1.000 dân, với hơn 87.000 vụ lừa đảo được ghi nhận. Về thiệt hại, báo cáo của GASA ghi nhận con số 374 triệu USD trong năm 2021. Tương đương khoản thiệt hại 4.200 USD mỗi vụ lừa đảo và 3.8 USD nếu tính trên đầu người. Báo cáo của GASA sử dụng dữ liệu được cung cấp bởi 2 dự án Chống lừa đảo, ScamVN và công ty bảo mật Group-IB.

Theo đánh giá của GASA, các cuộc tấn công lừa đảo trực tuyến tại Việt Nam đang gia tăng và ngày càng trở nên chuyên nghiệp hơn. Các dạng lừa đảo qua mạng phổ biến nhất trong nước là lừa đảo tài chính, lừa đảo danh tính và lừa đảo tình cảm. Bên cạnh đó, các loại hình lừa đảo mua hàng online và lừa đảo đầu tư (đặc biệt là qua các ứng dụng) cũng rất phổ biến.

Để chống lại các vụ lừa đảo này, thời gian qua nhiều cơ quan, tổ chức tại Việt Nam đã đưa ra các sáng kiến nhằm giúp người dùng tìm kiếm và báo cáo khi phát hiện các gian lận trực tuyến. Chỉ tính riêng trong năm 2021, đã có 113.384 trang web lừa đảo được người dùng Việt báo cáo tới hệ thống của dự án Chống lừa đảo và ScamVN. Đây là hai dự án phi lợi nhuận về phòng chống lừa đảo tại Việt Nam. Trong đó, hơn 22.000 website đã bị liệt vào “danh sách đen” của những đơn vị này.

PV

Một số bất cập và kiến nghị hoàn thiện về hình phạt tử hình theo pháp luật Việt Nam

7, Tin thế giới

CHIỀU

1. Đề xuất CSGT không chào bằng lời nói: Dễ dẫn đến sự tùy tiện trong giao tiếp

(LSVN) - Dự thảo Thông tư mới của Bộ Công an đã lược bỏ phần yêu cầu CSGT phải thực hiện chào bằng lời nói là chưa phù hợp. Vì đây là quy trình giao tiếp giữa CSGT với người tham gia giao thông trong quá trình tuần tra, kiểm soát giao thông cần phải được tuân thủ chặt chẽ. Nếu không, sẽ dẫn đến sự tùy tiện trong giao tiếp, phát ngôn của Chiến sỹ CSGT khi thực hiện nhiệm vụ.

Ảnh minh họa.

Vừa qua, Bộ Công an công bố dự thảo (lần 2) Thông tư quy định về nhiệm vụ, quyền hạn, hình thức, nội dung, quy trình tuần tra, kiểm soát, xử lý vi phạm hành chính về giao thông đường bộ của Cảnh sát giao thông (dự thảo Thông tư) để lấy ý kiến.

Theo đó, tại khoản 2 Điều 17 dự thảo Thông tư quy định: "Khi phương tiện giao thông cần kiểm soát đã dừng đúng vị trí theo hướng dẫn, Cảnh sát giao thông được phân công làm nhiệm vụ kiểm soát đứng ở vị trí phù hợp, an toàn, thực hiện động tác chào theo Điều lệnh Công an nhân dân (trừ trường hợp biết người đó thực hiện hành vi có dấu hiệu của tội phạm, phạm tội quả tang, đang có lệnh truy nã, có hành vi thiếu văn hóa, cản trở, chống đối việc kiểm tra, kiểm soát)".

So với khoản 2, Điều 18 Thông tư số 65/2020/TT-BCA ngày 19/6/2020 của Bộ trưởng Bộ Công an đang được áp dụng thì dự thảo Thông tư mới đã lược bỏ phần yêu cầu Cảnh sát giao thông (CSGT) phải thực hiện chào bằng lời nói: “Chào ông, bà, anh, chị...” (trừ trường hợp biết trước người đó thực hiện hành vi có dấu hiệu của tội phạm, phạm tội quả tang, đang có lệnh truy nã), sau đó nói lời: “Yêu cầu ông, bà, anh, chị... cho chúng tôi kiểm soát các giấy tờ có liên quan và kiểm soát phương tiện giao thông”.

Dự thảo Thông tư mới đã lược bỏ phần yêu cầu CSGT phải thực hiện chào bằng lời nói là chưa phù hợp. Vì đây là quy trình giao tiếp giữa CSGT với người tham gia giao thông trong quá trình tuần tra, kiểm soát giao thông cần phải được tuân thủ chặt chẽ. Nếu không, sẽ dẫn đến sự tùy tiện trong giao tiếp, phát ngôn của Chiến sỹ CSGT khi thực hiện nhiệm vụ.

Ngoài ra, CSGT thực hiện động tác chào bằng lời nói thể hiện sự chuẩn mực trong mối quan hệ giao tiếp giữa người thực thi công vụ và người tham gia giao thông. Khi đã tạo ra sự thân thiện giữa CSGT và người tham gia giao thông thì không khí làm việc sẽ vui vẻ, không căng thẳng, hạn chế thấp nhất sự chống đối, cản trở đối với người thi hành công vụ; thậm chí trong trường hợp, người tham gia giao thông có vi phạm nghiêm trọng pháp luật thì họ cũng sẽ vui vẻ chấp hành.

Theo dự thảo Thông tư mới, thì CSGT sẽ không thực hiện chào theo Điều lệnh Công an nhân dân đối với trường hợp biết người đó thực hiện hành vi có dấu hiệu của tội phạm, phạm tội quả tang, đang có lệnh truy nã, có hành vi thiếu văn hóa, cản trở, chống đối việc kiểm tra, kiểm soát. So với Thông tư số 65/2020/TT-BCA, thì dự thảo Thông tư mới bổ sung thêm trường hợp CSGT sẽ không thực hiện chào theo Điều lệnh Công an nhân dân đối với trường hợp người có hành vi thiếu văn hóa, cản trở, chống đối việc kiểm tra, kiểm soát.

Điều này là cần thiết và phù hợp với thực tiễn, bởi vì hiện nay, khi CSGT thực hiện nhiệm vụ tuần tra, kiểm soát đã gặp rất nhiều trường hợp thiếu văn hóa, cản trở, chống đối, lăng mạ, xúc phạm…CSGT; có trường hợp, người vi phạm có hành vi tấn công, gây thương vong cho lực lượng CSGT khi đang làm nhiệm vụ. Những trường hợp này, CSGT cần phải áp dụng ngay các biện pháp nghiệp vụ cần thiết để xử lý, trấn áp thì không phải thực hiện động tác chào theo Điều lệnh Công an nhân dân.

Bên cạnh đó, dự thảo Thông tư cũng đề xuất lực lượng CSGT được bố trí cán bộ mặc thường phục để dùng thiết bị nghiệp vụ giám sát tình hình giao thông, phát hiện người vi phạm. Khi phát hiện, CSGT mặc thường phục báo ngay cho lực lượng kiểm soát công khai mặc trang phục Công an, đeo số hiệu xử lý. Quy định này là cần thiết để xử lý những người tham gia giao thông có hành vi đối phó, tức là khi gặp CSGT thì chấp hành nhưng không có CSGT thì xảy ra vi phạm.

Tuy nhiên, cũng cần phải quy định cụ thể như lực lượng CSGT được bố trí cán bộ mặc thường phục để dùng thiết bị nghiệp vụ giám sát tình hình giao thông phải tuân theo chương trình, kế hoạch cụ thể; phải thực hiện theo đúng chức năng, nhiệm vụ và thẩm quyền của cán bộ CSGT mặc thường phục. Đồng thời, cán bộ CSGT mặc thường phục không có thẩm quyền xử lý vi phạm giao thông nhưng có nhiệm vụ chuyển nội dung vi phạm do thiết bị nghiệp vụ giám sát ghi lại cho lực lượng kiểm soát công khai mặc trang phục Công an, đeo số hiệu để xử lý. Và quy trình này phải công khai để người tham gia giao thông được biết, tránh tình trạng lạm dụng quyền hạn của cán bộ CSGT mặc thường phục và không xảy ra tình trạng kẻ xấu lợi dụng quy định này để lừa gạt, tống tiền hoặc cưỡng đoạt tài sản của người tham gia giao thông.

ĐỖ VĂN NHÂN

Đề xuất CSGT không chào bằng lời nói: Chưa phù hợp với thực tiễn

2. Bình ổn giá cả thị trường dịp cuối năm 2022 và dịp Tết Nguyên đán năm 2023

(LSVN) - Đây là một trong những nội dung tại Thông báo số 333/TB-VPCP ngày 25/10/2022 kết luận của Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Minh Khái – Trưởng Ban Chỉ đạo điều hành giá tại cuộc họp Ban Chỉ đạo điều hành giá về công tác quản lý, điều hành giá 9 tháng đầu năm 2022 và định hướng các tháng cuối năm 2022.

Ảnh minh họa.

Cụ thể, trong những tháng còn lại của năm 2022, Phó Thủ tướng yêu cầu các bộ, ngành, địa phương cần tiếp tục đẩy mạnh, chú trọng tập trung theo dõi sát diễn biến kinh tế và lạm phát thế giới tác động đến Việt Nam để có những giải pháp ứng phó phù hợp; cập nhật sát tình hình cung cầu trong nước để có chỉ đạo dự phòng tại địa phương đảm bảo nguồn cung, đảm bảo cân đối cung cầu trong nước.

Điều hành chính sách tiền tệ theo mục tiêu đề ra phối hợp với chính sách tài khóa và các chính sách khác để góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế.

Đối với những mặt hàng nhà nước quản lý, các dịch vụ công đang triển khai lộ trình thị trường (như dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh, dịch vụ giáo dục, điện). Các Bộ: Y tế, Giáo dục và Đào tạo, Công thương và các bộ, ngành, địa phương chủ động trong việc tính toán, chuẩn bị các phương án giá để triển khai điều chỉnh vào thời điểm phù hợp với quy định và bối cảnh chung.

Các bộ, ngành, địa phương có trách nhiệm tổ chức, theo dõi sát diễn biến cung cầu, giá cả thị trường các mặt hàng thuộc lĩnh vực quản lý tại từng thời điểm để có biện pháp điều hành phù hợp; chủ động tiếp tục tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, trong lưu thông để chuẩn bị các nguồn hàng dự trữ, bình ổn giá cả thị trường nhất là dịp cuối năm 2022 và dịp Tết Nguyên đán năm 2023, ưu tiên đảm bảo nguồn cung, đảm bảo cân đối cung - cầu thị trường, nhất là đối với các hàng hóa, dịch vụ quan trọng, thiết yếu như: xăng dầu, lương thực, thực phẩm (thịt lợn, thịt gia súc, gia cầm tươi sống), vật liệu xây dựng, dịch vụ vận tải, các hàng hóa tiêu dùng thiết yếu có nhu cầu tăng cao vào dịp cuối năm.

Bộ Công thương, Bộ Tài chính theo chức năng, nhiệm vụ được giao bám sát tình hình thị trường xăng dầu trong nước và quốc tế để triển khai thực hiện công tác chỉ đạo, quản lý, điều hành ổn định, hiệu quả; bảo đảm nguồn cung xăng dầu cho thị trường trong nước, góp phần giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát và đáp ứng nhu cầu sản xuất, tiêu dùng của doanh nghiệp và người dân.

Ngoài ra, Phó Thủ tướng yêu cầu các bộ, ngành, địa phương căn cứ dư địa lạm phát để chủ động chuẩn bị tốt các phương án điều hành giá các mặt hàng Nhà nước định giá, đánh giá kỹ tác động để thực hiện điều chỉnh theo thẩm quyền hoặc trình cấp có thẩm quyền xem xét quyết định mức độ điều chỉnh phù hợp với diễn biến, mặt bằng giá thị trường theo đúng quy định.

HÀ ANH

Một số bất cập và kiến nghị hoàn thiện về hình phạt tử hình theo pháp luật Việt Nam

3. VKSND Tối cao thông báo rút kinh nghiệm việc giải quyết vụ án dân sự

(LSVN) - Thông qua công tác kiểm sát giải quyết vụ án dân sự theo thủ tục giám đốc thẩm, VKSND tối cao thông báo rút kinh nghiệm về những sai sót, vi phạm trong vụ án "Tranh chấp quyền sử dụng đất, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, yêu cầu di dời tài sản, vật kiến trúc trên đất, hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất" giữa  nguyên đơn là bà Lâm Thị C với bị đơn là bà Nguyễn Thị Bích L, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là Ủy ban nhân dân huyện PQ, ông Nguyễn Việt  D, Công ty LT và một số người khác.

Ảnh minh họa.

Nội dung vụ án

Nguồn gốc đất tranh chấp có diện tích 11.420,9m2 tọa lạc tại ấp SĐ, xã DT, huyện PQ, tỉnh KG, theo nguyên đơn bà Lâm Thị C trình bày: Năm 1975 đã được huyện ủy PQ cấp cho bố mẹ bà là cụ Lâm Văn M và cụ Trần Thị H diện tích đất 40.000m2 (trong đó có diện tích 11.420,9m2 đang tranh chấp), việc giao cấp đất không có văn bản giấy tờ. Sau khi nhận đất, gia đình bà đã trồng một số cây lâu năm như: Dừa, Mít, Tràm bông vàng... Năm 1985, Ủy ban nhân dân huyện PQ đã mượn một phần đất trên để xây dựng lò gốm, việc mượn không lập văn bản, giấy tờ. Do kinh doanh không hiệu quả nên Ủy ban nhân dân huyện PQ đã sang nhượng lò gốm cho ông Huỳnh Văn M vào năm 1993. Ông M xây lò gạch, đến năm 1996 ông M cho người chặt phá cây do gia đình bà trồng nên đã xảy ra tranh chấp. Ngày 03/10/1996, huyện ủy PQ đã có văn bản xác định đất thuộc về gia đình bà, còn lò gạch thuộc về ông M.

Ngày 12/1/21995, ông Huỳnh Văn M có đơn xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (trong đó có cả đất tranh chấp), bà C khiếu nại. Ngày 20/11/1998, ông M được Nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, (sau đó cấp đổi vào năm 2003). Sau khi ông M được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, bà C khiếu nại, Ủy ban nhân dân huyện PQ giải quyết khiếu nại của bà C và ban hành Quyết định số 488/1999/QĐ-UB ngày 09/7/1999, không công nhận khiếu nại của bà C. Ngày 22/8/2000, Thanh tra tỉnh KG ra Quyết định số 128/QĐ-TTr công nhận Quyết định số 488/1999/QĐ-UB ngày 09/7/1999 của Ủy ban nhân dân huyện PQ. Bà C cho rằng việc giải quyết trên là trái quy định pháp luật vì đất này của gia đình bà được huyện ủy PQ giao cấp, tranh chấp quyền sử dụng đất giữa bà và ông M chưa được cơ quan có thẩm quyền nào giải quyết. Việc ông M chuyển nhượng quyền sử dụng đất này cho Công ty cổ phần LT vào năm 2004, năm 2015 Công ty cổ phần LT chuyển nhượng cho bà Nguyễn Thị Bích L, năm 2020 bà L chuyển nhượng cho anh Nguyễn Việt D là không đúng quy định pháp luật. Nay bà yêu cầu Tòa án giải quyết buộc hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do Ủy ban nhân dân huyện PQ cấp cho ông Huỳnh Văn M vào ngày 20/11/1998, hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp đổi ngày 07/7/2003 cho ông Huỳnh Văn M đối với thửa 60-b, diện tích 13.644m2; hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông M với Công ty công phần LT và hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AB 063076 do Ủy ban nhân dân tỉnh KG đã cấp cho Công ty cổ phần LT ngày 15/4/2005, thuộc thửa đất 60-b, tờ bản đồ số 1, diện tích 11.420,9m2; hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được Công chứng ngày 07/8/2015 giữa Công ty cổ phần LT với bà Nguyễn Thị Bích L; hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CB 156356 do Ủy ban nhân dân huyện PQ đã cấp cho bà Nguyễn Thị Bích L ngày 03/9/2015, thuộc thửa đất số 218, tờ bản đồ số 1, diện tích 11.420,9m2; hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Nguyễn Thị Bích L với anh Nguyễn Việt D được công chứng ngày 06/01/2020; hủy đăng ký biến động quyền sử dụng đất cho anh Nguyễn Việt D ngày 09/01/2020 trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CB 156356 do Ủy ban nhân dân huyện PQ đã cấp cho bà Nguyễn Thị Bích L. Giữ nguyên hiện trạng quyền sử dụng diện tích đất 11.420,9m2, thuộc thửa 218, tờ  bản đo số 01, tọa lạc tại ấp SĐ, xã DT, huyện PQ cho bà và công nhận quyền sử dụng đất nêu trên cho bà.

Quá trình giải quyết vụ án

Tại Bản án dân sự sơ thẩm 18/2020/DS-ST ngày 02/7/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh KG quyết định:

- Bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Lâm Thị C. Cụ thể: Yêu cầu công nhận quyền sử dụng đất và giữ nguyên hiện trạng đối với diện tích 11.420,9m2, đất thuộc thửa 218, tờ bản đồ số 01, tọa lạc tại ấp SĐ, xã DT, huyện PQ, tỉnh KG cho bà Lâm Thị C; yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do Ủy ban nhân dân huyện PQ cấp cho ông Huỳnh Văn M vào ngày 20/11/1998, yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do Ủy ban nhân dân huyện PQ cấp đổi sổ M 986643 ngày 07/7/2003 cho ông Huỳnh Văn M đối với thửa 60-b, diện tích 13.644m2; yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông M với Công ty cổ phần LT và hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AB 063076 do Ủy ban nhân dân tỉnh KG đã cấp cho Công ty cổ phần LT ngày 15/4/2005; yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhuợng quyền sử dụng đất đuợc công chứng ngày 07/8/2015 giữa Công ty cổ phần LT với bà Nguyễn Thị Bích L; yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CB 156356 do Ủy ban nhân dân huyện PQ đã cấp cho bà Nguyễn Thị Bích L ngày 03/9/2015; yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Nguyễn Thị Bích L với anh Nguyễn Việt D được công chứng ngày 06/01/2020 và hủy đăng ký biến động quyền sử dụng đất cho anh Nguyễn Việt D ngày 09/01/2020 trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CB 156356 do Ủy ban nhân dân huyện PQ đã cấp cho bà Nguyễn Thị Bích L.

- Chấp nhận yêu cầu độc lập của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh Nguyễn Việt D. Công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Nguyễn Thị Bích L với anh Nguyễn Việt D được công chứng, chứng thực ngày 06/01/2020, đăng ký biến động quyền sử dụng đất ngày 09/01/2020 tại Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai huyện PQ.

Buộc bà Lâm Thị C giao trả cho anh Nguyễn Việt D diện tích đất 11.420,9m2 đất tọa lạc tại ấp  SĐ, xã DT, huyện  PQ, tỉnh KG, đất thuộc thửa 218, tờ bản đồ 01, theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CB 156356 do Ủy ban nhân dân huyện Phú Quốc đã cấp cho bà Nguyễn Thị Bích L, đã được Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện PQ đăng ký biến động quyền sử dụng đất cho anh Nguyễn Việt D ngày 09/01/2020 (Theo Biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày 28/4/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh KG và sơ đồ trích đo địa chính số 54/2020 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện PQ).

- Buộc bà Lâm Thị C phải di dời toàn bộ tài sản, công trình, vật kiến trúc, cây trồng ra khỏi diện tích 11.420,9m2 đất, cụ thể: Nhà tạm số 01 có diện tích 21,6m2; nhà tạm số 02 có diện tích 19,2m2; nhà vệ sinh tạm có diện tích 3,3m2; một phần nhà trọ có diện tích 53m2; 02 ngôi mộ có tổng diện tích là 9,1m2 và toàn bộ cây chuối ra khỏi phần đất tranh chấp (Theo biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày 28/4/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh KG và sơ đồ trích đo địa chính số 54/2020 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện PQ).

Ghi nhận sự tự nguyện của bị đơn bà Nguyễn Thị Bích L cho lại bà Lâm Thị C giá trị cây trồng trên đất với số tiền 12.714.000 đồng.

Ngoài ra, Tòa án còn tuyên về án phí và chi phí thẩm định.

Ngày 10/7/2020, bà Lâm Thị C có đơn kháng cáo.

Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 677/2020/DS-PT ngày 15/12/2020, Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố H quyết định:

Không chấp nhận toàn bộ kháng cáo của bà Lâm Thị C. Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm 18/2020/DS-ST ngày 02/7/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh KG.

Ngày 15/1/2021, bà Lâm Thị C có đơn đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm đối với bản án phúc thẩm trên.

Ngày 04/11/2021, Tòa án nhân dân tối cao có Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 68/2021/KN-DS đối với Bản án dân sự phúc thẩm 677/2020/DS-PT ngày 15/12/2020 của Toà án nhân dân cấp cao tại thành phố H, đề nghị: Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm hủy bản án dân sự phúc thẩm nêu trên và Bản án dân sự sơ thẩm 18/2020/DS-ST ngày 02/7/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh KG. Quyết định giám đốc thẩm số 68/2021/DS-GĐT ngày 09/12/2021 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao chấp nhận Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 68/2021/KN-DS ngày 04/11/2021 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao; hủy bản án dân sự phúc thẩm nêu trên và Bản án dân sự sơ thẩm 18/2020/DS-ST ngày 02/7/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh KG; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh KG để xét xử sơ thẩm lại theo quy định của pháp luật. 

Những vi phạm và những vấn đề cần rút kinh nghiệm

Nguồn gốc diện tích đất tranh chấp là của cụ Lâm Văn M, cụ Trần Thị H (là cha mẹ của bà C) được Huyện ủy giao đất để canh tác từ năm 1975. Năm 1985, chính quyền huyện bố trí cho Xí nghiệp gốm sứ xây dựng lò gốm trên phần đất Huyện ủy đã cấp cho cụ M. Ngày 08/5/1993, Xí nghiệp gốm sứ giải thể, Ủy ban nhân dân huyện đã bán đấu giá toàn bộ xí nghiệp cho ông M. Tại Biên bản bàn giao tài sản của xí nghiệp cho ông M ngày 11/5/1993 thể hiện tài sản bàn giao là nhà xưởng, máy móc, lò nung, xe... không có nội dung giao đất, chỉ ghi “riêng phần đất sản xuất sẽ giao nhận thực tế sau”. Ngày 12/12/1995, ông M có đơn xin cấp 27.852m2 đất trong đó có diện tích đất đang tranh chấp, nên bà C khiếu nại. Ngày 20/11/1998, Ủy ban nhân dân huyện PQ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông M trong khi đất đang có tranh chấp chưa được giải quyết là không đúng với quy định tại khoản 3 Điều 30 Luật Đất đai năm 1993.

Sau khi Ủy ban nhân dân huyện PQ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông M, bà C khiếu nại, Ủy ban nhân dân huyện PQ giải quyết khiếu nại của bà C và ban hành Quyết định số 488/1999/QĐ-UB ngày 09/7/1999, không công nhận khiếu nại của bà C. Thanh tra tỉnh KG ra Quyết định số 128/QĐ-TTr ngày 22/8/2000 công nhận Quyết định số 488/1999/QĐ-UB ngày 09/7/1999 của Ủy ban nhân dân huyện PQ là không đúng thẩm quyền được quy định tại khoản 3 Điều 38 Luật Đất đai năm 1993.

Căn cứ vào Biên bản xác minh hoa màu và cây trái trên phần đất giao cho Xí nghiệp gạch ngói ngày 5/11/1996, Biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày 23/6/2016 và ngày 12/12/2017 thì trên đất tranh chấp có một số cây trồng lâu năm, bà C cho rằng những cây trồng lâu năm này do bà trồng từ năm 1975 và năm 1996. Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm chưa xác minh làm rõ diện tích đất có cây trồng lâu năm có phải do bà C trồng để xem xét công nhận quyền sử dụng phần đất này cho bà C, bảo đảm quyền lợi cho bà C theo đúng quy định của pháp luật. Tòa án các cấp căn cứ vào Quyết định số 488/1999/QĐ-UB ngày 09/7/1999 của Ủy ban nhân dân huyện PQ và Quyết định số 128/QĐ-TTr ngày 22/8/2000 của Thanh tra tỉnh KG giải quyết không đúng thẩm quyền để giải quyết vụ án, bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà C là không có căn cứ, không đảm bảo quyền lợi của nguyên đơn.

Tại Quyết định số 488/1999/QĐ-UB ngày 09/7/1999, Ủy ban nhân dân huyện PQ quyết định “Không công nhận khiếu nại của bà C, khẳng định quyền sử dụng đất hợp pháp gồm 1 ha của ông M, bà C tiếp tục được ở căn nhà cũ mà cụ M đã ở, đồng thời được thu hoa lợi trên diện tích 0,65ha… Việc bà C muốn được giao quyền sử dụng đất gồm 0,6 ha thì bà C phải lập thủ tục đề nghị giao đất theo quy định, nếu muốn giao thêm diện tích đất để canh tác thì sẽ được Ủy ban nhân dân huyện xem xét giao đất tại vị trí khác ngoài thửa đất 0,65ha đang tranh chấp”. Tại Quyết định số 128/QĐ-TTr ngày 22/8/2000, Thanh tra tỉnh KG quyết định “Công nhận quyết định số 488/QĐ-UB ngày 09/7/2000 của Ủy ban nhân dân huyện PQ”. Tuy nhiên, sau khi có Quyết định giải quyết khiếu nại thì bà C có đơn đề nghị giao thêm đất hay không? Đã được cơ quan có thẩm quyền xem xét hay chưa? Tòa án cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm cũng chưa xác minh làm rõ để ó căn cứ giải quyết vụ án nhằm đảm bảo quyền lợi cho bà C.

Về Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Nguyễn Thị Bích L với anh Nguyễn Việt D được Văn phòng Công chứng N K, tỉnh KG công chứng, chứng thực ngày 06/01/2020 đã vi phạm điều kiện chuyển nhượng quyền sử dụng đất được quy định tại điểm b khoản 1 Điều 188 Luật Đất đai năm 2013, do diện tích đất chuyển nhượng có tranh chấp, đang được Tòa án nhân dân tỉnh KG thụ lý, giải quyết. Tòa án cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà L với anh D là không đúng.

PHƯƠNG HOA

Bộ Công an khuyến cáo không chia sẻ thông tin tài khoản định danh điện tử cho người khác

4. Tập trung thanh tra, kiểm tra những lĩnh vực nhạy cảm, dễ xảy ra tham nhũng

(LSVN) - Kho bạc Nhà nước vừa có Công văn số 5076/KBNN-TTKT về xây dựng kế hoạch thanh tra, kiểm tra năm 2023. 

Ảnh minh họa.

Theo đó, công tác thanh tra, kiểm tra năm 2023 phải bám sát nhiệm vụ của ngành Tài chính trong việc quản lý điều hành NSNN, nhiệm vụ trọng tâm của hệ thống KBNN, của địa phương, đồng thời gắn với các quy định về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí và phòng chống tham nhũng, tiêu cực.

Xây dựng kế hoạch thanh tra, kiểm tra có trọng tâm, trọng điểm, đúng định hướng, chỉ đạo, không dàn trải. Tổ chức các đoàn thanh tra, kiểm tra hợp lý, hiệu quả.

Căn cứ theo chức năng, nhiệm vụ được giao của hệ thống Kho bạc Nhà nước, tập trung thanh tra, kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ thanh toán, chi trả các khoản chi của ngân sách nhà nước (NSNN) theo quy định của pháp luật (chi thường xuyên và chi đầu tư xây dựng cơ bản qua Kho bạc Nhà nước).

Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra vào những lĩnh vực dễ xảy ra tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, nơi có nhiều đơn thư tố cáo, khiếu nại, lĩnh vực nhạy cảm, cấp thiết, dư luận xã hội quan tâm, bức xúc để phát hiện, xử lý kịp thời, nghiêm minh các vụ việc chiếm dụng tiền NSNN.

Thanh tra việc chấp hành các quy định của pháp luật về các khoản chi NSNN thực hiện tại hệ thống KBNN, việc chấp hành các quy định của pháp luật quản lý các quỹ tài chính do Kho bạc Nhà nước quản lý.

Công tác kiểm tra nội bộ phải được tăng cường, tập trung kiểm tra trách nhiệm của thủ trưởng các đơn vị trong việc tổ chức, triển khai thực hiện nhiệm vụ được giao, chú trọng kiểm tra việc thực hiện cải cách hành chính; việc thực hiện các quy trình nghiệp vụ, quy chế công tác nhằm chấn chỉnh kịp thời các hành vi vi phạm kỷ cương, kỷ luật của ngành, đồng thời rà soát để kiến nghị sửa đổi, bổ sung các quy trình nghiệp vụ, các văn bản quy phạm pháp luật còn thiếu hoặc chưa phù hợp, góp phần hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính.

Kiểm tra việc chấp hành các quy định pháp luật về thanh tra, tiếp công dân, giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo và phòng chống tham nhũng; việc triển khai thực hiện các quy định của pháp luật về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; công tác kê khai tài sản thu nhập.

Đặc biệt, Kho bạc Nhà nước nhấn mạnh việc tăng cường kiểm tra đột xuất. Theo đó, Kho bạc Nhà nước yêu cầu Kho bạc Nhà nước các tỉnh, thành phố tiếp tục quan tâm, thực hiện kiểm tra đột xuất các đơn vị thuộc và trực thuộc, coi đây là công cụ hữu hiệu để nhìn nhận, đánh giá chính xác, thực chất, toàn diện các mặt hoạt động nghiệp vụ và quản lý nội bộ Kho bạc Nhà nước; kết hợp nhuần nhuyễn giữa tự kiểm tra, kiểm tra thường xuyên và kiểm tra đột xuất, qua đó xác định chính xác những rủi ro tiềm ẩn tại đơn vị, để có biện pháp khắc phục, xử lý kịp thời.

MAI HUỆ

Đề xuất CSGT không chào bằng lời nói: Chưa phù hợp với thực tiễn

5. Phòng chống nhũng nhiễu, tiêu cực trong công tác kiểm định phương tiện giao thông vận tải

(LSVN) - Cục Đăng kiểm Việt Nam vừa có văn bản gửi các đơn vị đăng kiểm trên cả nước về việc đảm bảo chất lượng an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường phương tiện giao thông vận tải và phòng chống nhũng nhiễu, tiêu cực trong công tác kiểm định phương tiện giao thông vận tải.

Ảnh minh họa.

Theo đó, Cục Đăng kiểm Việt Nam yêu cầu lãnh đạo, đăng kiểm viên, nhân viên nghiệp vụ trong các đơn vị đăng kiểm tiếp tục thực hiện nghiêm các chỉ đạo của Chính phủ và Bộ Giao thông Vận tải về việc đảm bảo chất lượng an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường phương tiện giao thông vận tải, công tác phòng chống hiện tượng nhũng nhiễu, tiêu cực trong lĩnh vực kiểm định.

Siết chặt hơn nữa việc thực hiện đạo đức, trách nhiệm, kỷ luật, kỷ cương, quy trình, quy định trong hoạt động kiểm định. Đồng thời, thực hiện việc kiểm định đúng tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật; kiên quyết không cấp giấy chứng nhận cho những phương tiện không đủ tiêu chuẩn tham gia giao thông.

Khi kiểm định phương tiện, đơn vị phải kiểm tra đầy đủ các hạng mục kiểm tra theo quy định, không được kết luận và thông báo cho khách hàng về việc phương tiện không đạt tiêu chuẩn khi chưa thực hiện kiểm tra đầy đủ các hạng mục theo quy trình, quy định.

Đối với trường hợp phương tiện không đạt tiêu chuẩn, lãnh đạo đơn vị có trách nhiệm phân công cán bộ có trình độ giải thích rõ ràng, đầy đủ và hướng dẫn khách hàng sửa chữa, khắc phục để kiểm định lại.

Cùng với đó, nghiêm cấm các đơn vị đăng kiểm xe cơ giới có các hành vi vi phạm quy định tại Nghị định số 100/2019/NĐ-CP ngày 30/12/2019 của Chính phủ (quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt). Cụ thể:

- Làm sai lệch kết quả kiểm định; không tuân thủ đúng quy định tại các quy trình, quy chuẩn kỹ thuật có liên quan trong kiểm định.

- Không công khai các thủ tục, quy trình kiểm định tại trụ sở đơn vị theo quy định; không thực hiện kiểm định phương tiện theo đúng thẩm quyền được giao; sử dụng đăng kiểm viên, nhân viên nghiệp vụ không có đủ điều kiện theo quy định;

- Thực hiện kiểm định mà không bảo đảm đầy đủ các trang thiết bị, dụng cụ kiểm định, bảo hộ lao động theo quy định; không bố trí đủ số lượng đăng kiểm viên tối thiểu trên dây chuyền kiểm định;

- Thực hiện kiểm định, cấp giấy chứng nhận kiểm định vượt quá số lượng phương tiện theo quy định đối với mỗi dây chuyền kiểm định;

- Thực hiện kiểm định khi tình trạng thiết bị, dụng cụ kiểm định chưa được xác nhận hoặc xác nhận không còn hiệu lực để bảo đảm tính chính xác theo quy định;

- Thực hiện kiểm định khi tình trạng thiết bị, dụng cụ kiểm định đã bị hư hỏng không bảo đảm tính chính xác theo quy định; không thực hiện việc kiểm tra, kiểm soát quá trình kiểm định, kết quả kiểm định theo quy định; không lưu trữ dữ liệu kiểm định theo quy định...

Cục Đăng kiểm Việt Nam cũng yêu cầu lãnh đạo, đăng kiểm viên, nhân viên nghiệp vụ trong đơn vị phải có thái độ lịch sự, đúng mực. Những trường hợp phức tạp, lãnh đạo đơn vị phải trực tiếp gặp khách hàng để giải quyết trên tinh thần tuân thủ pháp luật và vì nhân dân phục vụ.

Ngoài ra, yêu cầu các đơn vị đăng kiểm cần tích cực trong việc hỗ trợ các cơ quan chức năng khi có yêu cầu.
Cử đăng kiểm viên có trình độ tham gia, phối hợp với các lực lượng tuần tra, kiểm soát tại địa phương để rà soát, kiểm tra các phương tiện tham gia giao thông nhằm phát hiện, ngăn ngừa những phương tiện không đảm bảo an toàn kỹ thuật, phương tiện quá hạn đăng kiểm, hết niên hạn sử dụng vẫn tham gia giao thông.

DUY ANH

Một số bất cập và kiến nghị hoàn thiện về hình phạt tử hình theo pháp luật Việt Nam

6. Còn khoảng 200 ứng dụng cho vay trực tuyến do người nước ngoài cầm đầu

(LSVN) - Theo Phó Trưởng phòng Tham mưu Công an TP. Hồ Chí Minh qua rà soát thực tế, vẫn còn khoảng 200 ứng dụng cho vay trực tuyến do người nước ngoài cầm đầu, liên kết chặt chẽ với đối tượng trong nước như các cơ sở kinh doanh cầm đồ, tổ chức tài chính… Trong đó, các đối tượng này yêu cầu người vay tín chấp phải chia sẻ danh bạ trong điện thoại. Ngoài lãi suất khủng, phương thức đòi nợ của các đối tượng này mang tính khủng bố không chỉ người vay mà cả người thân, người quen; từ đó, gây tâm lý hoang mang cho người dân.

Ảnh minh họa.

Theo Phòng An ninh mạng và phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao (PA05), Công an TP. Hồ Chí Minh cho biết, hiện nay, trong các loại tội phạm công nghệ cao, nổi lên một loại gây nhiều bức xúc là hoạt động cho vay tín chấp theo kiểu tín dụng đen núp bóng các công ty điện tử tài chính cho vay qua các ứng dụng (app) trên mạng xã hội. Đặc biệt, sau đợt dịch Covid-19, các tổ chức tín dụng đen phát triển và hoạt động ngày càng mạnh.

Thượng tá Lê Mạnh Hà, Phó Trưởng phòng Tham mưu Công an TP. Hồ Chí Minh cho biết, qua rà soát thực tế, vẫn còn khoảng 200 ứng dụng cho vay trực tuyến do người nước ngoài cầm đầu, liên kết chặt chẽ với đối tượng trong nước như các cơ sở kinh doanh cầm đồ, tổ chức tài chính… Trong đó, các đối tượng này yêu cầu người vay tín chấp phải chia sẻ danh bạ trong điện thoại. Ngoài lãi suất khủng, phương thức đòi nợ của các đối tượng này mang tính khủng bố không chỉ người vay mà cả người thân, người quen; từ đó, gây tâm lý hoang mang cho người dân.

Đại diện Công an TP. Hồ Chí Minh nhận định, một trong những điều kiện để kẻ xấu lợi dụng thực hiện hành vi vi phạm pháp luật là vấn đề lỏng lẻo trong quản lý, cấp phát thông tin thuê bao của cơ quan quản lý Nhà nước; từ đó sử dụng sim rác, tài khoản ngân hàng rác để che dấu vết hoạt động.

Để đấu tranh có hiệu quả trước mắt và làm nền tảng cho công tác đấu tranh trong thời gian tới các đơn vị nghiệp vụ sẽ xây dựng dữ liệu thông tin về các đối tượng có khả năng vi phạm pháp luật trên lĩnh vực công nghệ cao, lĩnh vực, khu vực hoạt động phạm tội.

Trước tình trạng này, Công an TP. Hồ Chí Minh cũng sẽ tập trung xử lý các vấn đề là nguyên nhân, tạo điều kiện cho tội phạm hoạt động như mua bán, trao đổi thông tin dữ liệu cá nhân trái phép; hành vi mua bán thuê sim không chính chủ; hành vi mua bán cho thuê tài khoản ngân hàng rác, tài khoản giả, không chính chủ,…

Trên cơ sở nguồn tin từ tin báo, tố giác, thông tin của các ngân hàng, Công an sẽ tập hợp phân tích, thành lập cơ sở dữ liệu về các số điện thoại, căn cước công dân, tài khoản ngân hàng của các đối tượng nghi vấn để phân loại, giúp ích cho việc truy xuất, phân tích đánh giá quy luật, khu vực đối tượng, loại hình tội phạm để khi cần có để đấu tranh ngay và nhanh.

Ngoài ra, Bộ Công an cũng đã liên thông dữ liệu với 3 nhà mạng lớn về số thuê bao di động với Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư. Trong đó, Bộ Công an đã xác thực được hơn 9,3 triệu thuê bao (chiếm 57,5%) trên tổng số hơn 16,2 triệu thuê bao.

Trong thời gian tới, Công an TP. Hồ Chí Minh sẽ tiếp tục chỉ đạo Công an các địa phương quan tâm nhận diện phương thức thủ đoạn lừa đảo để thực hiện tốt công tác tuyên truyền nhằm ngăn chặn các vụ lừa đảo công nghệ cao, hạn chế thiệt hại trong nhân dân.

NGUYỄN PHƯƠNG

Một số bất cập và kiến nghị hoàn thiện về hình phạt tử hình theo pháp luật Việt Nam

7. Tin thế giới

SÁNG SỚM T2

1. Mức phạt vi phạm quy định về quản lý sử dụng nhà chung cư đối với người sử dụng nhà chung cư

(LSVN) – Chính phủ đã ban hành Nghị định số 16/2022/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính về xây dựng. Trong đó Nghị định nêu rõ mức phạt tiền đối với vi phạm quy định về quản lý sử dụng nhà chung cư đối với người sử dụng nhà chung cư.

Ảnh minh họa.

Tại Điều 70 Thông tư quy định rõ mức phạt vi phạm quy định về quản lý sử dụng nhà chung cư đối với người sử dụng nhà chung cư. Cụ thể, phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 40.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau đây:

- Gây thấm, dột căn hộ chung cư không thuộc quyền sở hữu, quản lý, sử dụng của mình;

- Sử dụng màu sắc sơn, trang trí mặt ngoài căn hộ, nhà chung cư không đúng quy định về thiết kế, kiến trúc;

- Kinh doanh hàng hóa nguy hiểm gây cháy nổ, dịch vụ sửa chữa xe có động cơ hoặc dịch vụ giết mổ gia súc;

- Kinh doanh nhà hàng, karaoke, quán bar tại phần diện tích dùng để kinh doanh của nhà chung cư nhưng không đảm bảo yêu cầu về cách âm, phòng cháy, chữa cháy theo quy định;

- Hoạt động kinh doanh tại phần diện tích không dùng để kinh doanh của nhà chung cư theo quy định;

- Sử dụng căn hộ chung cư vào mục đích không phải để ở.

Phạt tiền từ 60.000.000 đồng đến 80.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau đây:

- Chiếm dụng diện tích nhà ở trái pháp luật; lấn chiếm không gian xung quanh, lấn chiếm các phần thuộc sở hữu chung hoặc lấn chiếm các phần thuộc sở hữu riêng của chủ sở hữu khác dưới mọi hình thức;

- Tự ý thay đổi kết cấu chịu lực hoặc thay đổi thiết kế phần sở hữu riêng trong nhà chung cư;

- Sử dụng phần diện tích và các trang thiết bị thuộc quyền sở hữu, sử dụng chung vào sử dụng riêng;

- Sử dụng sai mục đích phần diện tích thuộc sở hữu chung hoặc phần diện tích làm dịch vụ trong nhà chung cư hỗn hợp.

Biện pháp khắc phục hậu quả:

- Buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu với hành vi quy định tại điểm a, điểm b khoản 1, điểm a, điểm b khoản 2 Điều này;

- Buộc chuyển kinh doanh hàng hóa nguy hiểm gây cháy nổ ra khỏi địa bàn dân cư hoặc buộc không sử dụng dịch vụ sửa chữa xe có động cơ hoặc buộc không kinh doanh dịch vụ giết mổ gia súc ở khu vực nhà chung cư với hành vi quy định tại điểm c khoản 1 Điều này;

- Buộc đảm bảo yêu cầu về cách âm, phòng cháy, chữa cháy theo quy định với hành vi quy định tại điểm d khoản 1 Điều này;

- Buộc sử dụng căn hộ chung cư vào mục đích để ở với hành vi quy định tại điểm e khoản 1 Điều này;

- Buộc trả lại phần diện tích và các trang thiết bị thuộc quyền sở hữu, sử dụng chung với hành vi quy định tại điểm c khoản 2 Điều này;

- Buộc sử dụng đúng phần diện tích thuộc sở hữu chung hoặc phần diện tích làm dịch vụ trong nhà chung cư hỗn hợp với hành vi quy định tại điểm d khoản 2 Điều này.

HÀ ANH

Một số bất cập và kiến nghị hoàn thiện về hình phạt tử hình theo pháp luật Việt Nam

2. Đăng ký tài khoản định danh điện tử cá nhân như thế nào?

(LSVN) - Từ ngày 20/10/2022, Nghị định 59/2022/NĐ-CP của Chính phủ về định danh và xác thực điện tử đã chính thức có hiệu lực thi hành. Theo đó, tùy vào mức độ của tài khoản định danh điện tử, người dân có thể đăng ký bằng hình thức trực tuyến hoặc trực tiếp đến trụ sở cơ quan Công an.

Ảnh minh họa.

Tài khoản định danh điện tử có hai mức độ. Mức độ 1 bao gồm các thông tin: số định danh cá nhân, họ tên, ngày/tháng/năm sinh, giới tính và ảnh chân dung. Mức độ 2 bao gồm các thông tin như mức độ 1 và vân tay.

Đăng ký tài khoản định danh điện tử đối với công dân Việt Nam

Đăng ký tài khoản định danh điện tử mức độ 1

Đăng ký tài khoản định danh điện tử mức độ 1 qua ứng dụng VNelD đối với công dân đã có thẻ Căn cước công dân gắn chíp điện tử:

- Công dân sử dụng thiết bị di động tải và cài đặt ứng dụng VNelD.

- Công dân sử dụng ứng dụng VNelD để nhập thông tin về số định danh cá nhân và số điện thoại hoặc địa chỉ thư điện tử; cung cấp các thông tin theo hướng dẫn trên ứng dụng VNelD; thu nhận ảnh chân dung bằng thiết bị di động và gửi yêu cầu đề nghị cấp tài khoản định danh điện tử tới cơ quan quản lý định danh và xác thực điện tử qua ứng dụng VNelD.

- Cơ quan quản lý định danh điện tử thông báo kết quả đăng ký tài khoản qua ứng dụng VNelD hoặc tin nhắn SMS hoặc địa chỉ thư điện tử.

Đăng ký tài khoản định danh điện tử mức độ 2

- Đối với công dân đã được cấp thẻ Căn cước công dân gắn chíp điện tử:

Công dân đến Công an xã, phường, thị trấn hoặc nơi làm thủ tục cấp thẻ Căn cước công dân để làm thủ tục cấp tài khoản định danh điện tử. Công dân xuất trình thẻ Căn cước công dân gắn chíp điện tử, cung cấp thông tin về số điện thoại hoặc địa chỉ thư điện tử và đề nghị bổ sung thông tin được tích hợp vào tài khoản định danh điện tử.

Cán bộ tiếp nhận nhập thông tin công dân cung cấp vào hệ thống định danh và xác thực điện tử; chụp ảnh chân dung, thu nhận vân tay của công dân đến làm thủ tục để xác thực với Cơ sở dữ liệu căn cước công dân và khẳng định sự đồng ý đăng ký tạo lập tài khoản định danh điện tử.

Cơ quan quản lý định danh điện tử thông báo kết quả đăng ký tài khoản qua ứng dụng VNelD hoặc tin nhắn SMS hoặc địa chỉ thư điện tử.

- Cơ quan Công an tiến hành cấp tài khoản định danh điện tử mức độ 2 cùng với cấp thẻ Căn cước công dân với trường hợp công dân chưa được cấp Căn cước công dân gắn chíp điện tử.

Đăng ký tài khoản định danh điện tử đối với người nước ngoài

Đăng ký tài khoản định danh điện tử mức độ 1

Người nước ngoài sử dụng thiết bị di động tải và cài đặt ứng dụng VNelD.

Người nước ngoài sử dụng ứng dụng VNelD để nhập thông tin về số hộ chiếu hoặc giấy tờ có giá trị đi lại quốc tế và địa chỉ thư điện tử hoặc số điện thoại (nếu có); cung cấp các thông tin theo hướng dẫn trên ứng dụng VNelD; thu nhận ảnh chân dung bằng thiết bị di động và gửi yêu cầu đề nghị cấp tài khoản định danh điện tử tới cơ quan quản lý định danh và xác thực điện tử qua ứng dụng VNelD.

Cơ quan quản lý định danh điện tử thông báo kết quả đăng ký tài khoản qua ứng dụng VNelD hoặc tin nhắn SMS hoặc địa chỉ thư điện tử.

Đăng ký tài khoản định danh điện tử mức độ 2

- Người nước ngoài đến cơ quan quản lý xuất nhập cảnh thuộc Bộ Công an hoặc Công an cấp tỉnh làm thủ tục đăng ký tài khoản định danh điện tử, xuất trình Hộ chiếu hoặc giấy tờ có giá trị đi lại quốc tế, cung cấp thông tin địa chỉ thư điện tử hoặc số điện thoại (nếu có) và đề nghị bổ sung thông tin được tích hợp vào tài khoản định danh điện tử.

- Cán bộ tiếp nhận nhập thông tin người nước ngoài cung cấp vào hệ thống định danh và xác thực điện tử; chụp ảnh chân dung, thu nhận vân tay của người nước ngoài đến làm thủ tục để xác thực với Cơ sở dữ liệu quốc gia về xuất nhập cảnh và khẳng định sự đồng ý đăng ký tạo lập tài khoản định danh điện tử.

- Cơ quan quản lý xuất nhập cảnh gửi yêu cầu cấp tài khoản định danh điện tử tới cơ quan quản lý định danh và xác thực điện tử.

- Cơ quan quản lý định danh và xác thực điện tử thông báo kết quả đăng ký tài khoản qua ứng dụng VNelD hoặc tin nhắn SMS hoặc địa chỉ thư điện tử.

HỒNG HẠNH

Bộ Công an khuyến cáo không chia sẻ thông tin tài khoản định danh điện tử cho người khác

3. 21 dự án nhà ở xã hội, nhà ở công nhân đủ điều kiện vay vốn

(LSVN) - Theo Bộ Xây dựng đến nay, 21 dự án nhà ở xã hội, nhà ở cho công nhân và cải tạo chung cư cũ với quy mô gần 19.900 căn hộ đã đủ điều kiện vay vốn theo Nghị quyết số 11/NQ-CP của Chính phủ.

Ảnh minh họa.

Triển khai Nghị quyết số 11/NQ-CP của Chính phủ về Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội, Tổ công tác liên ngành đã được thành lập với thành phần gồm đại diện Bộ Xây dựng, đại diện Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Ngân hàng Chính sách xã hội để làm việc với các địa phương.

Tổ công tác đã đôn đốc, hướng dẫn, kiểm tra về công tác xây dựng chương trình, kế hoạch phát triển nhà ở, nhất là các chỉ tiêu về nhà ở xã hội, nhà ở cho công nhân tại tỉnh Bắc Ninh, TPHCM, Thái Nguyên, Hà Nam, Hưng Yên.

Ngoài ra, Bộ Xây dựng đã làm việc với UBND các tỉnh, thành phố Hà Nội, Quảng Ninh, Hải Dương, Hòa Bình, Lào Cai, Quảng Trị, Bình Dương, Đồng Nai… Đồng thời phối hợp với Ngân hàng Nhà nước, Ngân hàng Chính sách xã hội trong việc giải ngân hai gói hỗ trợ theo Nghị quyết số 11/NQ-CP của Chính phủ.

Về kết quả giải ngân (2 gói hỗ trợ), Bộ Xây dựng cho biết, theo báo cáo của NHCSXH, việc giải ngân gói hỗ trợ cho khách hàng cá nhân vay để mua, thuê mua nhà ở xã hội, nhà công nhân, nhà ở của hộ gia đình đến nay đã giải ngân được 2.306 tỉ đồng cho 6.673 khách hàng thuộc các đối tượng nói trên.

Đối với việc giải ngân gói hỗ trợ cho chủ đầu tư dự án nhà ở xã hội, nhà ở công nhân, cải tạo xây dựng lại chung cư cũ, trên cơ sở rà soát các điều kiện đã được quy định cụ thể tại Nghị định số 31/2022/NĐ-CP, đến nay, Bộ Xây dựng đã 3 lần công bố danh mục các dự án đủ điều kiện được vay trên Cổng thông tin điện tử của Bộ và gửi Ngân hàng Nhà nước với số lượng 21 dự án nhà ở xã hội, nhà ở cho công nhân, cải tạo chung cư cũ đủ điều kiện.

Quy mô 21 dự án này có 19.897 căn hộ, tổng mức đầu tư 20.179 tỉ đồng và nhu cầu vay vốn theo đề xuất của các địa phương khoảng 7.139 tỉ đồng.

PV

Bộ Công an khuyến cáo không chia sẻ thông tin tài khoản định danh điện tử cho người khác

4. Một số ý kiến đối với dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi)

(LSVN) - Có thể khẳng định Luật Đất đai là đạo luật rất quan trọng, có ý nghĩa rất lớn trong quá trình phát triển kinh tế-xã hội, quốc phòng-an ninh, đặt biệt là đối với quyền, lợi ích hợp pháp của công dân. Sau khi nghiên cứu dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi), tôi xin tham gia một số ý kiến để hoàn thiện dự thảo Luật này. Cụ thể: 

Thứ nhất, về phần giải thích từ ngữ: So với Luật Đất đai năm 2013, dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) đã bổ sung việc giải thích một số từ ngữ để thống nhất tuy nhiên, vẫn cần tiếp tục nghiên cứu, bổ sung một số thuật ngữ và làm rõ hơn về nội hàm của một số thuật ngữ đã được giải thích. Cụ thể: Theo khoản 33 Điều 3 dự thảo Luật: “Lấn đất là việc người sử dụng đất chuyển dịch mốc giới hoặc ranh giới thửa đất để mở rộng diện tích đất sử dụng mà không được cơ quan quản lý nhà nước về đất đai cho phép hoặc không được người sử dụng hợp pháp diện tích đất bị lấn đó cho phép”. Quy định trên là việc luật hóa quy định về lấn đất đã được quy định tại Nghị định 91/2019/NĐ-CP và xa hơn nữa là Nghị định 102/2014/NĐ-CP. 

Trong thực tiễn, hành vi lấn đất không chỉ là việc chuyển dịch mốc giới hoặc ranh giới thửa đất để mở rộng diện tích đất sử dụng. Thậm chí, có trường hợp có hành vi lấn đất nhưng việc dịch chuyển mốc giới hoặc ranh giới thửa đất không xảy ra. Ngoài hành vi chuyển dịch mốc giới hoặc ranh giới thửa đất để mở rộng diện tích đất sử dụng, lấn đất còn xảy dưới hình thức: người sử dụng đất sử dụng vượt quá phần không gian, lòng đất theo chiều thẳng đứng từ ranh giới bất động sản mà mình được phép sử dụng nhằm chiếm dụng không gian, lòng đất của người sử dụng đất khác (Ví dụ: mái nhà lấn sang không gian trên đất của người khác).

Do đó, đề nghị xem xét quy định khoản 33 Điều 3 dự thảo Luật như sau: “Lấn đất là việc người sử dụng đất tự ý chuyển dịch mốc giới hoặc ranh giới thửa đất mình để mở rộng diện tích hoặc sử dụng vượt quá phần không gian, lòng đất theo chiều thẳng đứng từ ranh giới thửa đất mà mình được phép sử dụng nhưng không được cơ quan quản lý nhà nước về đất đai cho phép hoặc không được người sử dụng hợp pháp diện tích, không gian, lòng đất bị lấn đó cho phép”. Việc quy định như trên cũng nhằm thống nhất với quyền của người sử dụng đất được quy định tại khoản 2 Điều 175 Bộ luật Dân sự năm 2015.

Khi xác định một trong những biểu hiện của hành vi lấn đất là việc “chuyển dịch mốc giới hoặc ranh giới thửa đất” thì rất cần giải thích về mốc giới, ranh giới của thửa đất. Bởi lẽ chỉ khi xác định được ranh giới, mốc giới thửa đất thì mới xác định được có hay không có hành vi lấn đất; xác định được vị trí, hình thể, diện tích của phần đất động bị lấn. Theo đó, cần bổ sung quy định về ranh giới, mốc giới đất như sau: “Ranh giới đất là giới hạn phân chia giữa các thửa đất liền kề nhau. Mốc giới là tiêu điểm để xác định ranh giới giữa các thửa đất liền kề nhau. Ranh giới giữa các thửa đất có thể là đoạn thẳng hoặc tập hợp các đoạn thẳng nối các mốc giới”. Ngoài ra, quy định về ranh giới, mốc giới của thửa đất cũng sẽ làm rõ hơn nội hàm của khái niệm “thửa đất” được quy định tại khoản 40 Điều 3 dự thảo Luật. 

Thứ hai, về sự tương thích giữa dự thảo Luật và một số Luật khác có liên quan: Luật Đất đai có các quy định liên quan chặt chẽ với các luật kinh doanh khác như Luật Đầu tư, Luật Xây dựng, Luật Nhà ở, Luật kinh doanh bất động sản, Luật Quy hoạch đô thị, Luật Quy hoạch, Bộ luật Dân sự… Vì vậy, các quy định của Luật Đất đai cần thiết phải đặt trong tổng thể chung của hệ thống pháp luật về kinh doanh để đảm bảo thống nhất, hạn chế tình trạng chồng chéo, gây cản trở, ách tắc hoạt động đầu tư kinh doanh. Qua đối chiếu, nhận thấy một số quy định chưa đảm bảo tính thống nhất, có thể gây khó khăn cho doanh nghiệp khi thực hiện các hoạt động đầu tư, cụ thể:

- Về người sử dụng đất là “cá nhân người nước ngoài”: Theo quy định tại Điều 6 dự thảo Luật thì: “cá nhân người nước ngoài” không được xem là người sử dụng đất, không được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất, nhận chuyển quyền sử dụng đất; thuê lại đất trong khu công nghiệp, cụm công nghiệp, khu công nghệ cao. Quy định này cần được xem xét lại để bảo đảm tính thống nhất với quy định của Luật Kinh doanh bất động sản, Luật Nhà ở hiện hành, cụ thể: Điểm b khoản 2 Điều 159 Luật Nhà ở 2014 quy định, cá nhân nước ngoài được sở hữu nhà ở tại Việt Nam thông qua: “mua, thuê mua, nhận tặng cho, nhận thừa kế nhà ở thương mại bao gồm căn hộ chung cư và nhà ở riêng lẻ trong dự án đầu tư xây dựng nhà ở trừ khu vực bảo đảm quốc phòng, an ninh theo quy định của Chính phủ”; Luật Kinh doanh bất động sản 2014 quy định: “cá nhân nước ngoài được thuê các loại bất động sản để sử dụng; được mua, thuê, thuê mua nhà ở theo quy định của pháp luật về nhà ở” (khoản 2 Điều 14); “Việc mua bán nhà, công trình xây dựng phải gắn với quyền sử dụng đất” (khoản 1 Điều 19).

Như vậy, theo quy định tại Luật Kinh doanh bất động sản 2014, Luật Nhà ở 2014 thì người nước ngoài được thừa nhận quyền sở hữu nhà ở, nhưng theo Dự thảo thì lại không có quyền sử dụng đất. Điều này chưa phù hợp với nguyên tắc mua bán nhà, công trình xây dựng được quy định tại khoản 1 Điều 19 Luật Kinh doanh bất động sản 2014. Mặt khác, nếu người nước ngoài bán nhà cho người Việt Nam thì người mua có được thừa nhận quyền sử dụng đất không? Vô hình trung, quyền của người mua là người Việt Nam, sẽ không được đảm bảo. Vì vậy, đề nghị điều chỉnh để đảm bảo tính tương thích giữa Luật Đất đai và Luật Nhà ở, Luật Kinh doanh bất động sản.

- Thời điểm được thực hiện các quyền của người sử dụng đất: Khoản 1 Điều 37 dự thảo Luật quy định: “Người sử dụng đất được thực hiện các quyền chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, tặng cho, thế chấp, góp vốn quyền sử dụng đất khi có Giấy chứng nhận”. Quy định này chưa thật sự tương thích với quy định của Luật Nhà ở và Luật Kinh doanh bất động sản. Cụ thể: Luật Nhà ở và Luật Kinh doanh bất động sản quy định chỉ trường hợp chủ đầu tư kinh doanh bất động sản kinh doanh bất động sản theo hình thức bán nhà có sẵn mới yêu cầu phải có Giấy chứng nhận. Các giao dịch mua bán nhà ở hình thành trong tương lai, chuyển nhượng hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai là các trường hợp không yêu cầu phải có Giấy chứng nhận (Điều 55 Luật Kinh doanh bất động sản; khoản 2 Điều 118 Luật Nhà ở). 

Vì vậy, đề nghị điều chỉnh lại quy định tại khoản 1 Điều 37 dự thảo để đảm bảo tính thống nhất giữa các luật: “1. Người sử dụng đất được thực hiện các quyền chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, tặng cho, thế chấp, góp vốn quyền sử dụng đất khi có Giấy chứng nhận trừ trường hợp pháp luật về nhà ở, pháp luật kinh doanh bất động sản có quy định khác. Đối với trường hợp chuyển đổi quyền sử dụng đất nông nghiệp thì người sử dụng đất được thực hiện quyền sau khi có quyết định giao đất, cho thuê đất; trường hợp nhận thừa kế quyền sử dụng đất thì người sử dụng đất được thực hiện quyền khi có Giấy chứng nhận hoặc đủ điều kiện để cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất”.

- Giao đất, cho thuê đất trong trường hợp chấp thuận nhà đầu tư: Theo quy định của Luật Đầu tư 2020, có ba hình thức lựa chọn nhà đầu tư: (1). Đấu giá quyền sử dụng đất; (2). Đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư; (3). Chấp thuận nhà đầu tư. Điều 125 dự án Luật đất đai (sửa đổi) quy định 03 trường hợp giao đất, thuê đất: (1). Giao đất, cho thuê đất không thông qua đấu giá, đấu thầu dự án; (2). Giao đất, cho thuê đất thông qua hình thức đấu thầu dự án; (3). Giao đất, cho thuê đất thông qua đấu giá quyền sử dụng đất.

Trong các trường hợp giao đất, cho thuê đất tại dự thảo Luật không quy định trường hợp Nhà nước giao đất, cho thuê đất cho nhà đầu tư được chấp thuận đầu tư theo quy định tại Luật Đầu tư 2020. Điều này có thể dẫn tới trường hợp, khi nhà đầu tư được chấp thuận đầu tư nhưng không biết sẽ phải thực hiện thủ tục nào để được Nhà nước giao đất, cho thuê đất và sẽ gặp khó khăn khi triển khai dự án đầu tư. Vì vậy, để đảm bảo bảo thuận lợi cho nhà đầu tư thực hiện dự án trong trường hợp được chấp thuận đầu tư, đề nghị bổ sung căn cứ để giao đất, cho thuê đất đối với trường hợp này vào Điều 125 dự thảo.

- Thời điểm có hiệu lực của giao dịch liên quan đến quyền sử dụng đất: Theo quy định tại khoản 3 Điều 57 dự thảo Luật thì việc chuyển quyền sử dụng đất trong các hợp đồng, giao dịch chuyển đổi, chuyển nhượng, thừa kế, tặng cho, góp vốn bằng quyền sử dụng đất và việc thế chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất, cho thuê, cho thuê lại quyền sử dụng đất phải đăng ký tại cơ quan đăng ký đất đai và có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký vào Sổ địa chính. 

Quy định về thời điểm có hiệu lực của các giao dịch liên quan đến quyền sử dụng đất trên chưa phù hợp với quy định tại pháp luật về kinh doanh bất động sản. Khoản 3 Điều 17 Luật Kinh doanh bất động sản 2014 quy định thời điểm có hiệu lực của hợp đồng kinh doanh bất động sản do các bên thỏa thuận và ghi trong hợp đồng. Trường hợp hợp đồng có công chứng, chứng thực thì thời điểm có hiệu lực của hợp đồng là thời điểm công chứng, chứng thực. Trường hợp các bên không có thỏa thuận, không có công chứng, chứng thực thì thời điểm có hiệu lực của hợp đồng là thời điểm các bên ký kết hợp đồng. Như vậy giữa dự án Luật Đất đai (sửa đổi) và Luật Kinh doanh bất động sản 2014 đang có quy định khác nhau về thời điểm phát sinh hiệu lực của các giao dịch về quyền sử dụng đất. Bên cạnh đó, quy định trên còn tạo bất lợi và rủi ro cho bên nhận chuyển nhượng, bởi vì hoạt động thanh toán thường thực hiện tại thời điểm ký kết hợp đồng, trong khi đó thời điểm này hợp đồng lại chưa có hiệu lực. Vì vậy, đề nghị xem xét quy định thời điểm phát sinh hiệu lực của các giao dịch theo quy định tại Luật Kinh doanh bất động sản 2014.

Ngoài ra, còn có một số vấn đề khác như: Về cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ghi tên đại diện hộ gia đình: Khoản 5 Điều 153 quy định: “Trường hợp các thành viên có chung quyền sử dụng đất của hộ gia đình có nhu cầu thì cấp một Giấy chứng nhận ghi tên đại diện hộ gia đình trên Giấy chứng nhận và trao cho người đại diện hộ gia đình”. Đề nghị không quy định theo hướng trên. Việc Giấy chứng nhận chỉ ghi tên đại diện hộ gia đình làm phát sinh nhiều tranh chấp. Nếu Giấy chứng nhận ghi tên đại diện hộ gia đình, khi thực hiện các giao dịch, khó có thể xác định được các thành viên trong hộ gia đình gồm những ai, những người đó có đồng ý với giao dịch hay không... 

Bên cạnh đó, thửa đất thuộc quyền sử dụng của hộ gia đình là tài sản chung hợp nhất nên hợp đồng giao dịch sẽ vô hiệu toàn bộ gây ảnh tới quyền lợi của bên nhận giao dịch. Trường hợp không bỏ quy định trên, đề nghị quy định rõ về cơ quan có thẩm quyền xác nhận thành viên hộ gia đình sử dụng đất. Về quy định diện tích tối thiểu được tách thửa: Khoản 2 Điều 221 dự thảo quy định: “Ủy ban nhân dân cấp tỉnh căn cứ quy định tại khoản 1 Điều này, các quy định pháp luật có liên quan và điều kiện cụ thể tại địa phương quy định chi tiết điều kiện, diện tích, kích thước tối thiểu của thửa đất sau khi tách thửa đất, hợp thửa đất”. Quy định trên sẽ được hiểu Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền quy định điều kiện, diện tích, kích thước tối thiểu của thửa đất sau khi tách thửa, hợp thửa đối với các loại đất được quy định tại Điều 11 của dự thảo.

Tuy nhiên, đối với một loại đất được quy định tại Điều 11 dự thảo thì việc quy định điều kiện, diện tích, kích thước tối thiểu của thửa đất sau khi tách thửa đất, hợp thửa đất là không cần thiết. Việc quy định cụ thể sẽ cũng tránh được tình trạng các địa phương quy định không thống nhất về loại đất được tách thửa, hợp thửa như thời gian vừa qua (có địa phương chỉ quy định điều kiện, diện tích, kích thước tối thiểu để tách thửa đối với đất ở; địa phương quy định điều kiện, diện tích tối thiểu để tách thửa đối với các loại đất). Theo quan điểm của Sở, chỉ nên quy định điều kiện, diện tích, kích thước tối thiểu của thửa đất sau khi tách thửa, hợp thửa đối với đất ở và đất thương mại, dịch vụ. Các loại đất khác không cần thiết phải quy định. 

Trường hợp quy định UBND cấp tỉnh quy định điều kiện, diện tích, kích thước tối thiểu của thửa đất sau khi tách thửa đất, hợp thửa đối với các loại đất, đề nghị quy định rõ nguyên tắc tách thửa đối với thửa đất có các mục đích sử dụng khác nhau nhưng sau khi tách chỉ có một loại đất đảm bảo điều kiện, diện tích, kích thước tối thiểu theo quy định của UBND cấp tỉnh. Đây là trường hợp gặp nhiều trong thực tiễn nhưng các địa phương rất lúng túng, khó khăn trong việc giải quyết và giải quyết không thống nhất giữa các địa phương./.

Thạc sĩ PHẠM VĂN CHUNG

Sở Tư pháp tỉnh Kon Tum

Bộ Công an khuyến cáo không chia sẻ thông tin tài khoản định danh điện tử cho người khác

5. Khi quảng cáo về hoạt động hành nghề, Luật sư không cung cấp thông tin gây hiểu nhầm

(LSVN) -  Tôi đang theo học Khóa đào tạo nghề Luật sư tại Học viện Tư pháp Việt Nam và dự định phấn đấu để trở thành Luật sư. Qua tìm hiểu tôi được biết trên thế giới có nhiều Hãng Luật rất nổi tiếng và tôi mong muốn sau này tôi cũng sẽ mở một Hãng Luật của mình để bảo vệ công lý. Nhưng một số bạn trong khóa học cho rằng tại Việt Nam không có Hãng Luật mà chỉ có các Công ty Luật và Văn phòng Luật sư. Vậy tại Việt Nam hiện nay có thể thành lập Hãng Luật được không và nếu Luật sư giới thiệu mình thuộc Hãng Luật có đúng không?

Khoản 1 Điều 32 Luật Luật sư 2006 sửa đổi bổ sung năm 2012 quy định về hình thức tổ chức hành nghề Luật sư như sau: “Tổ chức hành nghề Luật sư bao gồm: Văn phòng Luật sư và Công ty luật”.

Ngoài Văn phòng Luật và Công ty Luật hiện pháp luật Việt Nam chưa quy định các loại hình tổ chức khác trong đó có Hãng Luật, Tập đoàn Luật… Do vậy, tại thời điểm này nếu thành lập Tổ chức hành nghề Luật sư thì Luật sư chỉ có thể lựa chọn loại hình là Công ty Luật hoặc Văn phòng Luật. 

Hiện pháp luật Việt Nam chưa công nhận các loại hình tổ chức như Hãng Luật, Tập Đoàn Luật,…do vậy nếu Luật sư sử dụng khái niệm này trong giao tiếp và trong hành nghề là chưa phù hợp đặc biệt trong trường hợp sử dụng với dụng ý để khách hàng hiểu nhầm các loại hình tổ chức này to hơn, có giá trị hơn loại hình Công ty Luật và Văn phòng Luật. 

Quy tắc 32 Bộ Quy tắc Đạo đức và ứng xử nghề nghiệp Luật sư Việt Nam quy định về quảng cáo của Luật sư như sau:

“32.1. Khi quảng cáo về hoạt động hành nghề Luật sư, Luật sư không được cung cấp những thông tin không có thật hoặc thông tin gây hiểu nhầm. Luật sư phải chịu trách nhiệm khi cam kết trong quảng cáo về chất lượng dịch vụ Luật sư”.

Luật sư TRẦN VĂN AN

Ủy viên Ban Thường vụ Liên đoàn Luật sư Việt Nam

Trưởng Ban Đạo đức nghề nghiệp Luật sư Việt Nam

Chủ nhiệm Đoàn Luật sư tỉnh Bắc Giang

Luật sư với công tác xây dựng, hoàn thiện pháp luật

6, Kì họp

7. Tin thế giới

8. Đề xuất điều kiện cấp giấy phép hoạt động phòng khám đa khoa, chuyên khoa

(LSVN) - Đây là một trong những đề xuất của Bộ Y tế tại dự thảo Nghị định quy định cấp chứng chỉ hành nghề đối với người hành nghề và cấp giấy phép hoạt động đối với cơ sở khám bệnh, chữa bệnh.

Dự thảo nêu rõ, ngoài việc đáp ứng các điều kiện chung để cấp giấy phép hoạt động đối với các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh, phòng khám đa khoa phải đáp ứng thêm các điều kiện sau:

- Về quy mô, phòng khám đa khoa phải có ít nhất 2 trong 4 chuyên khoa nội, ngoại, sản, nhi; có bộ phận cận lâm sàng (xét nghiệm và chẩn đoán hình ảnh).

- Bên cạnh đó, phòng khám đa khoa phải có phòng cấp cứu, phòng lưu người bệnh, phòng khám chuyên khoa và phòng tiểu phẫu (nếu thực hiện tiểu phẫu). 

- Các phòng khám trong phòng khám đa khoa phải có đủ diện tích để thực hiện kỹ thuật chuyên môn. Phòng khám đa khoa phải có hộp thuốc chống sốc và đủ thuốc cấp cứu chuyên khoa.

- Về nhân sự, số lượng bác sĩ khám bệnh, chữa bệnh hành nghề cơ hữu của phải đạt tỷ lệ ít nhất là 50% trên tổng số bác sĩ hành nghề khám bệnh, chữa bệnh của phòng khám đa khoa. 

Người phụ trách các phòng khám chuyên khoa và bộ phận cận lâm sàng (xét nghiệm và chẩn đoán hình ảnh) thuộc phòng khám đa khoa phải là người làm việc cơ hữu tại phòng khám.

Theo dự thảo, ngoài việc đáp ứng các điều kiện chung để cấp giấy phép hoạt động đối với các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh, trừ điều kiện về người chịu trách nhiệm chuyên môn kỹ thuật, phòng khám chuyên khoa phải đáp ứng thêm các điều kiện sau:

- Về cơ sở vật chất, trường hợp thực hiện thủ thuật, bao gồm cả kỹ thuật cấy ghép răng (implant), châm cứu, xoa bóp day ấn huyệt, phải có phòng hoặc khu vực riêng dành cho việc thực hiện thủ thuật. Phòng hoặc khu vực thực hiện thủ thuật phải có đủ diện tích để thực hiện kỹ thuật chuyên môn.

- Trường hợp phòng khám chuyên khoa thực hiện cả hai kỹ thuật nội soi tiêu hóa trên và nội soi tiêu hóa dưới thì phải có 2 phòng riêng biệt. Trường hợp khám điều trị bệnh nghề nghiệp phải có bộ phận xét nghiệm sinh hóa.

- Phòng khám chuyên khoa phải có hộp thuốc chống sốc và đủ thuốc cấp cứu chuyên khoa.

PV

Bộ Công an khuyến cáo không chia sẻ thông tin tài khoản định danh điện tử cho người khác

TRỰC CHIỀU THỨ 2

1. Đề xuất các hình thức kinh doanh quyền sử dụng đất đã có hạ tầng kỹ thuật trong dự án bất động sản  

(LSVN) - Bộ Xây dựng đang nghiên cứu và lấy ý kiến của người dân đối với dự thảo Luật Kinh doanh bất động sản (sửa đổi). Trong đó, bộ đề xuất quy định về các hình thức kinh doanh quyền sử dụng đất đã có hạ tầng kỹ thuật trong dự án bất động sản.

Ảnh minh họa.

Cụ thể, tại Điều 33 dự thảo Luật Kinh doanh bất động sản (sửa đổi) nêu rõ các hình thức kinh doanh quyền sử dụng đất đã có hạ tầng kỹ thuật trong dự án bất động sản gồm:

- Chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã có hạ tầng kỹ thuật trong dự án bất động sản cho hộ gia đình, cá nhân tự xây dựng nhà ở.

- Chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã có hạ tầng kỹ thuật trong dự án bất động sản cho tổ chức để đầu tư xây dựng nhà ở, công trình xây dựng.

- Cho thuê quyền sử dụng đất đã có hạ tầng kỹ thuật trong dự án đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, khu công nghiệp, cụm công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao hoặc các dự án bất động sản khác để tổ chức, cá nhân sử dụng theo đúng mục đích sử dụng đất và nội dung dự án đầu tư được chấp thuận.

Dự thảo cũng quy định cụ thể các yêu cầu đối với dự án bất động sản khi kinh doanh quyền sử dụng đất đã có hạ tầng kỹ thuật. Theo đó, dự án bất động sản đã hoàn thành việc đầu tư xây dựng các công trình dịch vụ, công trình hạ tầng kỹ thuật thiết yếu theo quy hoạch chi tiết xây dựng 1/500 hoặc quy hoạch tổng mặt bằng của dự án đã được phê duyệt, bảo đảm chất lượng theo quy định của pháp luật về xây dựng.

Đảm bảo kết nối với hệ thống hạ tầng chung của khu vực trước, đảm bảo cung cấp các dịch vụ thiết yếu gồm cấp điện, cấp nước, thoát nước, thu gom rác thải.

Việc chuyển nhượng, cho thuê quyền sử dụng đất đã có hạ tầng kỹ thuật trong dự án bất động sản phải phù hợp với phương án kinh doanh của dự án được cơ quan nhà nước có thẩm quyền chấp thuận.

Đáp ứng các yêu cầu quy định tại khoản 1 Điều 12 của Luật này. Đối với dự án nhà ở còn phải đáp ứng yêu cầu quy định tại khoản 2 Điều 12 của Luật này.

DUY ANH

Bộ Công an khuyến cáo không chia sẻ thông tin tài khoản định danh điện tử cho người khác

2. Thủ tục đình chỉ một phần hoặc toàn bộ hoạt động chuyên môn của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh

(LSVN) - Đây là một trong những đề xuất đáng chú ý của Bộ Y tế tại dự thảo Nghị định quy định cấp chứng chỉ hành nghề đối với người hành nghề và cấp giấy phép hoạt động đối với cơ sở khám bệnh, chữa bệnh. 

Ảnh minh họa.

Theo đó, tại Điều 47 dự thảo nêu rõ các trường hợp cơ sở khám bệnh, chữa bệnh bị đình chỉ một phần hoặc toàn bộ hoạt động chuyên môn:

- Cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có sai sót chuyên môn kỹ thuật hoặc không bảo đảm một trong các điều kiện quy định tại Điều 43 Luật Khám bệnh, chữa bệnh phải bị đình chỉ một phần hoặc toàn bộ hoạt động chuyên môn.

- Mức độ sai sót chuyên môn kỹ thuật của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh do Hội đồng chuyên môn quy định tại Điều 74, Điều 75 Luật Khám bệnh, chữa bệnh xác định và là căn cứ để cơ quan có thẩm quyền quyết định đình chỉ một phần hoặc toàn bộ hoạt động chuyên môn của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh.

Cơ sở khám bệnh, chữa bệnh bị đình chỉ một phần hoặc toàn bộ hoạt động chuyên môn trong các trường hợp sau đây:

- Đình chỉ toàn bộ hoạt động chuyên môn khi không bảo đảm toàn bộ một trong các điều kiện về quy mô, cơ sở vật chất hoặc thiết bị y tế hoặc tổ chức, nhân sự theo quy định tại Nghị định này;

- Đình chỉ một phần hoạt động chuyên môn khi không bảo đảm một trong các điều kiện quy định tại Điều 43 Luật khám bệnh, chữa bệnh nhưng không thuộc các trường hợp quy định tại Điểm a Khoản này.

Khi phát hiện trường hợp vi phạm quy định tại khoản 1 và 2 Điều này, thủ tục đình chỉ đình chỉ một phần hoặc toàn bộ hoạt động chuyên môn của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh được thực hiện như sau:

- Bộ trưởng Bộ Y tế ra quyết định đình chỉ một phần hoạt động chuyên môn đối với cơ sở khám bệnh, chữa bệnh trực thuộc Bộ Y tế hoặc các Bộ, ngành khác theo mẫu quy định tại Mẫu số 11 Phụ lục XI của Nghị định này;

- Sở Y tế ra quyết định đình chỉ hoạt động chuyên môn của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh theo mẫu quy định tại Mẫu số 12 Phụ lục XI của Nghị định này;

- Trường hợp cơ quan ra quyết định đình chỉ không phải là cơ quan đã cấp giấy phép hoạt động cho cơ sở khám bệnh, chữa bệnh thì phải có văn bản thông báo cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã cấp giấy phép hoạt động cho cơ sở khám bệnh, chữa bệnh đó;

- Cơ quan ra quyết định thu hồi đăng tải thông tin về việc đình chỉ hoạt động chuyên môn của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh trên cổng hoặc trang thông tin điện tử của cơ quan đó.

Trước khi thực hiện thủ tục quy định tại Khoản 3 Điều này, phải có kết luận của Hội đồng chuyên môn theo quy định tại Điều 74, Điều 75 Luật Khám bệnh, chữa bệnh hoặc Đoàn kiểm tra của cơ quan có thẩm quyền xác định cơ sở khám bệnh, chữa bệnh không đủ điều kiện theo quy định tại Điều 43 Luật khám bệnh, chữa bệnh.

VĂN QUANG

Một số bất cập và kiến nghị hoàn thiện về hình phạt tử hình theo pháp luật Việt Nam

3. Đề xuất tăng mức chi cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật

(LSVN) - Bộ Tài chính đang lấy ý kiến góp ý của nhân dân với dự thảo Thông tư sửa đổi Thông tư liên tịch số 14/2014/TTLT-BTC-BTP quy định việc lập dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí ngân sách nhà nước bảo đảm cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật (PBGDPL) và chuẩn tiếp cận pháp luật của người dân tại cơ sở. 

Ảnh minh họa.

Theo Bộ Tài chính, các mức chi cho công tác PBGDPL được quy định tại Phụ lục kèm theo Thông tư liên tịch số 14 gồm có: chi biên soạn tài liệu PBGDPL đặc thù; tổ chức cuộc thi, hội thi; thực hiện thống kê, báo cáo công tác PBGDPL. Tính đến năm 2022, các mức chi này đã được thực hiện 8 năm vì vậy việc xem xét tăng mức chi cho phù hợp với thực tế là cần thiết. 

Tuy vậy, từ năm 2014 đến nay, mức lương cơ sở chỉ tăng 56% (từ 1,15 triệu đồng lên 1,8 triệu đồng), CPI bình quân chỉ tăng 22%, nên mức chi tối đa của Thông tư chỉ tăng được 1,5 lần (tương tự một số mức chi cho hoạt động tư pháp đã được nâng bình quân khoảng 1,5 lần ). Vì vậy, để bảo đảm mặt bằng chung, Bộ Tài chính đề xuất tăng mức chi nêu trên là 1,5 lần.

Cụ thể, về mức chi biên soạn một số tài liệu PBGDPL đặc thù: Đối với tờ gấp pháp luật (bao gồm biên soạn, biên tập, thẩm định): Mức chi là 1,5 triệu đồng /tờ gấp đã hoàn thành (thay cho mức 1 triệu đồng hiện nay). 

Tiểu phẩm pháp luật (bao gồm biên soạn, biên tập, thẩm định, lấy ý kiến chuyên gia): Mức chi là 7,5 triệu đồng/tiểu phẩm đã hoàn thành (thay cho mức 5 triệu đồng hiện nay). 

Chi giải thưởng, tùy theo quy mô và địa bàn tổ chức cuộc thi để quyết định mức chi giải thưởng cụ thể, nhưng không vượt quá định mức chi tối đa dưới đây: 

Giải nhất: Giải thưởng tập thể 15 triệu đồng (thay cho mức 10 triệu đồng hiện hành); giải thưởng cá nhân 9 triệu đồng (thay mức 6 triệu đồng). 

Giải nhì: Giải thưởng tập thể là 10,5 triệu đồng (thay cho mức 7 triệu đồng hiện hành); giải thưởng cá nhân sẽ tăng lên mức 4,5 triệu đồng (thay mức 3 triệu đồng). 

Đối với chi thực hiện thống kê, báo cáo về công tác phổ biến, giáo dục pháp luật: Thu thập thông tin, xử lý số liệu báo cáo của các Bộ, ngành, địa phương: Mức chi tăng từ 50.000 đồng/báo cáo lên 75.000 đồng/báo cáo. 

Báo cáo tổng hợp trình, báo cáo Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, mức chi tăng từ 5 triệu đồng/báo cáo lên 7,5 triệu đồng/báo cáo. 

Báo cáo định kỳ hàng năm của các Bộ, ngành, địa phương, mức chi tăng từ 3 triệu đồng/báo cáo lên 4,5 triệu đồng/báo cáo. 

MAI HUỆ

Bộ Công an khuyến cáo không chia sẻ thông tin tài khoản định danh điện tử cho người khác

4. Bình luật Án lệ số 54/2022/AL về xác định quyền nuôi con dưới 36 tháng tuổi trong trường hợp người mẹ không trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con

(LSVN) - Án lệ số 54/20202/AL được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao thông qua ngày 07 tháng 9 năm 2022 và được công bố theo Quyết định số 323/QĐ-CA ngày 14 tháng 10 năm 2022 của Chánh án Tòa án nhân dân Tối cao. 

1. Nguồn án lệ:

Quyết định giám đốc thẩm số 01/2014/HNGĐ-GĐT ngày 27/02/2019 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng về vụ án hôn nhân gia đình “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” tại tỉnh Đắk Lắk giữa nguyên đơn là chị Phạm Thị Kiều K với bị đơn là anh Nguyễn Hữu P.

2. Vị trí nội dung án lệ: 

Đoạn 3 phần “Nhận định của Tòa án”.

3. Khái quát nội dung án lệ:

- Tình huống án lệ: Trong vụ án hôn nhân và gia đình có tranh chấp về quyền nuôi con dưới 36 tháng tuổi, người mẹ tự ý bỏ đi từ khi con còn rất nhỏ, không quan tâm đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con; người con được người cha nuôi dưỡng, chăm sóc trong điều kiện tốt và đã quen với điều kiện, môi trường sống đó.

- Giải pháp pháp lý: Trường hợp này, Tòa án phải tiếp tục giao con dưới 36 tháng tuổi cho người cha trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc.

4. Quy định của pháp luật liên quan đến án lệ: 

Khoản 2, 3 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

5. Từ khoá của án lệ: 

“Quyền nuôi con dưới 36 tháng tuổi”; “Ly hôn”; “Tranh chấp về nuôi con”.

Qua nghiên cứu toàn bộ án lệ, tác giả có một số ý kiến bình luận về án lệ như sau:

1. Quy định của pháp luật liên quan đến án lệ:

Khoản 2, 3 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định:

“2. Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.

3. Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con”.

2. Sự cần thiết ban hành án lệ

Theo quy định tại Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, khi ly hôn, vợ chồng có quyền thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con. Quy định này nhằm đảm bảo được quyền lợi mọi mặt cho người con. Trường hợp, vợ chồng không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.

Tuy nhiên, đối với người con dưới 36 tháng tuổi thì Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định nếu có tranh chấp về nuôi con mà vợ chồng không thoả thuận được người trực tiếp nuôi con thì Toà án giao con cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con. Từ quy định này mà thực tiễn giải quyết các vụ án ly hôn có tranh chấp về nuôi con dưới 36 tháng tuổi thường các Toà án giải quyết giao con cho người mẹ nuôi mà không xem xét đến người trực tiếp nuôi con trước khi ly hôn là ai; người mẹ nếu trực tiếp nuôi con có đảm bảo quyền lợi cho con không. 

Từ đó, dẫn đến nhiều trường hợp, sau khi Toà án giải quyết ly hôn xong thì một thời gian sau người không trực tiếp nuôi con là người chồng nộp đơn yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con. Vì vậy, việc ban hành Án lệ số 54/2022 là rất cần thiết, tạo sự thống nhất trong vận dụng áp dụng pháp luật và đường lối giải quyết vụ án ly hôn có tranh chấp nuôi con mà người con là dưới 36 tháng tuổi nhưng do người chồng trực tiếp nuôi trước khi ly hôn.

3. Nội dung án lệ

Quá trình giải quyết vụ án chị Phạm Thị Kiều K và anh Nguyễn Hữu P đều có nguyện vọng xin được nuôi cháu Nguyễn Đắc T, sinh ngày 30/11/2016. Khoản 3 Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con”. Trong vụ án này, chỉ vì mâu thuẫn vợ chồng, chị Phạm Thị Kiều K tự ý về nhà bố mẹ đẻ sinh sống, bỏ lại cháu T mới được 04 tháng tuổi cho anh Nguyễn Hữu P nuôi dưỡng. Tại các Biên bản xác minh cùng ngày 23/01/2018 (bút lục số 19, 20, 24), Ban tự quản thôn và Chi hội phụ nữ thôn H, xã E, huyện K xác nhận: “Anh Nguyễn Hữu P nuôi dưỡng, chăm sóc cháu Nguyễn Đắc T rất tốt. Anh P có việc làm tại Công ty TNHH Thương mại và dịch vụ N, thu nhập ổn định, hoàn toàn đủ điều kiện để nuôi cháu T”. 

Mặc dù, khoản 3 Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định “Con dưới 36 tháng tuổi phải giao cho mẹ trực tiếp nuôi...”, nhưng chị K đã không nuôi cháu T từ khi cháu được 04 tháng tuổi. Hiện tại, cháu T đã quen với điều kiện, môi trường sống và được anh P nuôi dưỡng, chăm sóc đảm bảo trong điều kiện tốt nhất; nếu giao cháu T cho chị K nuôi dưỡng sẽ gây sự xáo trộn, ảnh hưởng đến sự phát triển bình thường của cháu. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét một cách toàn diện, tiếp tục giao cháu T cho anh P trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc là có căn cứ. Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm giao cháu T cho chị K nuôi dưỡng là không phù hợp, chưa xem xét đầy đủ đến quyền và lợi ích hợp pháp về mọi mặt của cháu T.

Tuy nhiên, vấn đề cần đặt ra đề trao đổi nghiên cứu thêm đó là khi giải quyết vụ án ly hôn có tình huống pháp lý tương tự như tình huống trong Án lệ số 54/2022/AL thì có cần phải xem xét đến nguyên nhân, hoàn cảnh việc người mẹ phải bỏ đi từ khi con còn rất nhỏ, việc người mẹ không quan tâm đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con và độ tuổi của con thời điểm người mẹ bỏ đi là mấy tháng hoặc mấy tuổi không. Bởi vì thực tiễn giải quyết các vụ án ly hôn có tranh chấp việc nuôi con dưới 36 tháng tuổi có trường hợp người mẹ tự bỏ đi khi con còn rất nhỏ và không trực tiếp thăm hỏi, quan tâm đến con cho đến khi vụ án ly hôn được Toà án thụ lý giải quyết nhưng cũng có trường hợp người mẹ bị buộc phải bị bời người chồng hoặc người thân của người chồng. 

Ví dụ: Do mâu thuẫn về tiền trong gia đình giữa vợ chồng mà người chồng có hành vi xua đuổi, chửi mắng, bạo hành người vợ, mặc dù gia đình hai bên có khuyên cản nhưng người chồng vẫn không thay đổi thái độ và hành vi với người vợ. Trường hợp, người vợ bỏ nhà đi về nhà mẹ ruột nhưng trong hoàn cảnh không thể không đi. Trường hợp này có xem là người mẹ tư bỏ nhà đi không. Cho nên, khi xem xét vấn đề người mẹ tự ý bỏ đi phải xem xét đến nguyên nhân của việc bỏ đi này. Nếu việc bỏ đi xuất phát từ ý chí của người mẹ mà không bị tác động bởi nguyên nhân khác thì xem xét áp dụng Án lệ số 54/2022/AL. Còn nếu việc người mẹ bỏ đi mà bị tác động bởi người chồng, hoặc gia đình chồng thì cần xem xét không áp dụng Án lệ số 54/2022/AL mà việc giao con cho người chồng hoặc người mẹ nuôi là căn cứ vào các điều kiện khác theo quy định của pháp luật. 

Bên cạnh đó, tình tiết “khi con còn rất nhỏ” cũng cần phải tiếp tục làm rõ thêm. Bởi vì tình huống trong án lệ là người con mới 04 tháng tuổi nhưng tình huống tương tự thời điểm người mẹ bỏ đi khi người con 10, 11 tháng tuổi hoặc hơn 01 tuổi thì có thể xem xét áp dụng Án lệ số 54/2022/AL để giải quyết hay không. Như vậy, việc xác định thời điểm người mẹ tự ý bỏ đi “khi người con còn rất nhỏ” là thời điểm người con dưới 12 tháng tuổi là phù hợp nhất. Bởi vì thời điểm mọi trẻ em rất cần sự chăm sóc của người mẹ. Nếu thời điểm người mẹ tự ý bỏ đi thì không xem xét áp dụng Án lệ số 54/2022/AL mà việc giao con cho người chồng hoặc người mẹ nuôi là căn cứ vào các điều kiện khác theo quy định của pháp luật.

DƯƠNG TẤN THANH

Phó Chánh án TAND Thị xã Duyên Hải, tỉnh Trà Vinh

Án lệ số 54/2022/AL về xác định quyền nuôi con dưới 36 tháng tuổi trong trường hợp người mẹ không trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con

5. 

CHƯA SỬA

1. Thời gian phải giao quyết định tạm giữ cho người/tổ chức vi phạm là bao lâu?

(LSVN) - Luật Xử lý VPHC sửa đổi, bổ sung quy định, trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi lập biên bản, người lập biên bản phải báo cáo người có thẩm quyền tạm giữ về tang vật, phương tiện VPHC, giấy phép, chứng chỉ hành nghề đã tạm giữ để xem xét ra quyết định tạm giữ, quyết định tạm giữ phải được giao cho người vi phạm, đại diện tổ chức vi phạm 1 bản. Tuy nhiên, Luật không nêu rõ thời hạn bao lâu phải giao quyết định tạm giữ cho người vi phạm. Có nhiều trường hợp khi người vi phạm đến nhận quyết định xử phạt mới được nhận đồng thời quyết định tạm giữ (khi đó đã hết thời gian tạm giữ). Vậy, sau bao lâu từ khi ra quyết định tạm giữ phải giao quyết định cho người/tổ chức vi phạm? Bạn đọc T.A.T. hỏi.

Liên quan đến vấn đề này, theo Bộ Tư pháp các điểm a, b, khoản 1, Điều 3 Luật Xử lý VPHC quy định nguyên tắc xử phạt VPHC, bao gồm:

"a) Mọi VPHC phải được phát hiện, ngăn chặn kịp thời và phải bị xử lý nghiêm minh, mọi hậu quả do VPHC gây ra phải được khắc phục theo đúng quy định của pháp luật;

b) Việc xử phạt VPHC được tiến hành nhanh chóng, công khai, khách quan, đúng thẩm quyền, bảo đảm công bằng, đúng quy định của pháp luật".

Điểm b, khoản 4, Điều 125 Luật Xử lý VPHC quy định: "Trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi lập biên bản, người lập biên bản phải báo cáo người có thẩm quyền tạm giữ về tang vật, phương tiện VPHC, giấy phép, chứng chỉ hành nghề đã tạm giữ để xem xét ra quyết định tạm giữ; quyết định tạm giữ phải được giao cho người vi phạm, đại diện tổ chức vi phạm 01 bản".

Tùy từng trường hợp cụ thể, khoản 8, Điều 125 Luật Xử lý VPHC cũng quy định thời hạn tạm giữ tang vật, phương tiện VPHC từ không quá 7 ngày làm việc đến không quá 2 tháng, kể từ ngày tạm giữ (trừ trường hợp tạm giữ để bảo đảm thi hành quyết định xử phạt).

Căn cứ các quy định pháp luật nêu trên, Bộ Tư pháp cho rằng, quyết định tạm giữ tang vật, phương tiện VPHC, giấy phép, chứng chỉ hành nghề sau khi lập xong phải được giao cho cá nhân, tổ chức vi phạm.

Mặc dù Luật Xử lý VPHC và các văn bản quy định chi tiết thi hành Luật không quy định cụ thể thời hạn giao quyết định này, tuy nhiên, theo trình tự, thủ tục xử phạt VPHC, thì việc giao quyết định tạm giữ tang vật, phương tiện VPHC, giấy phép, chứng chỉ hành nghề cần phải được thực hiện ngay sau khi ban hành quyết định để bảo đảm nguyên tắc kịp thời, công khai, minh bạch, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức vi phạm theo đúng tinh thần của Luật Xử lý VPHC.

PV

2. Ai được đặc xá dịp Quốc khánh 02/9/2022?

(LSVN) - 

Chủ tịch nước vừa có Quyết định số 766/2022/QĐ-CTN về việc đặc xá tha tù trước thời hạn cho người bị kết án phạt tù có thời hạn, tù chung thân nhân dịp Quốc khánh 02/9/2022.

Thời gian đã chấp hành án phạt tù để xét đặc xá tính đến ngày 31/8/2022.

Theo Điều 2 Quyết định này, đối tượng đặc xá gồm:

- Người đang chấp hành án phạt tù có thời hạn;

- Người bị kết án tù chung thân đã được giảm xuống tù có thời hạn;

- Người đang được tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù.

Người đang chấp hành án phạt tù có thời hạn, người bị kết án tù chung thân đã được giảm xuống tù có thời hạn được đề nghị đặc xá phải có đủ các điều kiện sau đây:

- Có nhiều tiến bộ, có ý thức cải tạo tốt và được xếp loại chấp hành án phạt tù khá hoặc tốt theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự;

- Đã chấp hành án phạt tù ít nhất là một phần hai thời gian đối với trường hợp bị phạt tù có thời hạn, nếu trước đó đã được giảm thời hạn chấp hành án phạt tù thì thời hạn được giảm không được tính vào thời gian đã chấp hành án phạt tù; đã chấp hành án phạt tù ít nhất là 15 năm đối với trường hợp bị phạt tù chung thân đã được giảm xuống tù có thời hạn, nếu sau khi đã được giảm xuống tù có thời hạn mà tiếp tục được giảm thời hạn chấp hành án phạt tù thì thời hạn được giảm sau đó không được tính vào thời gian đã chấp hành án phạt tù;

Người bị kết án về tội phá hoại việc thực hiện các chính sách kinh tế - xã hội; tội phá hoại chính sách đoàn kết; tội tổ chức, cưỡng ép, xúi giục người khác trốn đi nước ngoài hoặc trốn ở lại nước ngoài nhằm chống chính quyền nhân dân; tội trốn đi nước ngoài hoặc trốn ở lại nước ngoài nhằm chống chính quyền nhân dân; người bị kết án từ 10 năm tù trở lên về một trong các tội quy định tại Chương các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người của Bộ luật Hình sự do cố ý hoặc người bị kết án từ 07 năm tù trở lên về tội cướp tài sản; tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản; tội sản xuất trái phép chất ma túy; tội mua bán trái phép chất ma túy; tội chiếm đoạt chất ma túy của Bộ luật Hình sự đã chấp hành án phạt tù ít nhất hai phần ba thời gian đối với trường hợp bị kết án phạt tù có thời hạn, nếu trước đó đã được giảm thời hạn chấp hành án phạt tù thì thời hạn được giảm không được tính vào thời gian đã chấp hành án phạt tù; đã chấp hành án phạt tù ít nhất là 18 năm đối với trường hợp bị phạt tù chung thân đã được giảm xuống tù có thời hạn, nếu sau khi đã được giảm xuống tù có thời hạn mà tiếp tục được giảm thời hạn chấp hành án phạt tù thì thời hạn được giảm sau đó không được tính vào thời gian đã chấp hành án phạt tù;

- Đã chấp hành xong hình phạt bổ sung là phạt tiền, đã nộp án phí;

- Đã thi hành xong nghĩa vụ trả lại tài sản, bồi thường thiệt hại, nghĩa vụ dân sự khác đối với người bị kết án phạt tù về các tội phạm tham nhũng;

- Đã thi hành xong hoặc thi hành được một phần nghĩa vụ trả lại tài sản, bồi thường thiệt hại, nghĩa vụ dân sự khác nhưng do lâm vào hoàn cảnh kinh tế đặc biệt khó khăn thuộc trường hợp chưa có điều kiện thi hành tiếp phần còn lại theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự đối với người bị kết án phạt tù về tội phạm không phải là tội phạm tham nhũng;

Trường hợp phải thi hành nghĩa vụ trả lại tài sản, bồi thường thiệt hại, nghĩa vụ dân sự khác đối với tài sản không thuộc sở hữu của Nhà nước thì phải được người được thi hành án đồng ý hoãn thi hành án hoặc không yêu cầu thi hành án đối với tài sản này;

- Khi được đặc xá không làm ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự;

- Không thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 4 Quyết định này.

HỒNG HẠNH

Dự thảo quy định về quan hệ phối hợp hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự

3. Khuyến cáo người dân cảnh giác trước tình trạng giả danh công an để gọi điện lừa đảo

(LSVN) - 

Thời gian gần đây, trên địa bàn thành phố Hà Nội liên tiếp xảy ra các vụ việc giả danh cơ quan công an gọi điện thoại để lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Ngăn chặn tình trạng này đang là vấn đề cấp thiết hiện nay, đòi hỏi việc gia tăng các biện pháp xử lý, tuyên truyền của cơ quan chức năng, sự cảnh giác của người dân.

Mặc dù Công an thành phố Hà Nội đã có nhiều cảnh báo về thủ đoạn mạo danh cơ quan công an để lừa đảo chiếm đoạt tài sản nhưng vẫn nhiều người bị “sập bẫy” của các đối tượng. 

Mới đây, ngày 12/8, Công an quận Cầu Giấy tiếp nhận đơn trình báo của chị P. (sinh năm 1980; ở quận Cầu Giấy) về việc nhận được cuộc điện thoại của một đối tượng tự xưng là cán bộ công an. 

Đối tượng thông báo chị P. có liên quan đến một vụ án điều tra và yêu cầu chị tải ứng dụng giả mạo “Bộ Công an” để phục vụ điều tra. Sau khi đăng nhập tài khoản, chị P. phát hiện tài khoản bị mất gần 2 tỷ đồng nên đã đến cơ quan công an trình báo.

Trước đó, Công an quận Đống Đa cũng đã tạm giữ 3 đối tượng: Đoàn Trung Dũng (sinh năm 1990; ở xã Võng La, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội), Thới Minh Nhật (sinh năm 1996; ở xã Trà Phú, huyện Trà Bồng, tỉnh Quảng Ngãi), Trần Quang Định (sinh năm 1996; ở thị trấn Trà Xuân, huyện Trà Bồng, tỉnh Quảng Ngãi) liên quan đến vụ án “Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản”.

Các đối tượng này đã giả mạo Công an thành phố Đà Nẵng, Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng gọi điện thoại cho nạn nhân H. (sinh năm 1952; ở phường Láng Thượng, quận Đống Đa, thành phố Hà Nội) thông báo liên quan đến vụ tai nạn giao thông và đường dây buôn bán ma túy. 

Do lo sợ và tin tưởng là thật, nên ông H. đã cung cấp toàn bộ thông tin cá nhân cho các đối tượng. Làm theo hướng dẫn, ông H. thấy tài khoản ngân hàng của mình bị mất gần 1,2 tỷ đồng. Biết bị lừa nên ông H. đã đến cơ quan công an để trình báo sự việc.

Để phòng ngừa tội phạm lừa đảo qua điện thoại, các cấp, các ngành thành phố đã triển khai nhiều biện pháp và bước đầu có những chuyển biến tích cực. 

Đại tá Hà Mạnh Hùng, Trưởng Công an quận Hoàn Kiếm cho biết, Công an quận đã thành lập nhóm Zalo giữa Công an khu vực với ngân hàng để kịp thời trao đổi thông tin phòng ngừa tội phạm; niêm yết biển cảnh báo về phương thức, thủ đoạn hoạt động của đối tượng này tại các quầy giao dịch, nơi khách hàng, người dân dễ nhìn, dễ đọc để nâng cao ý thức cảnh giác…

Trong khi đó, quận Hà Đông có nhiều cách làm hay, sáng tạo như triển khai “Sổ tay phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật”, “Sổ tay an ninh Hà Đông điện tử”… đạt hiệu quả cao trong công tác phòng ngừa tội phạm nói chung và tội phạm sử dụng công nghệ cao giả mạo cơ quan công an để lừa đảo. 

Công an thành phố Hà Nội đã khuyến cáo, người dân không cung cấp thông tin cá nhân, số điện thoại, số chứng minh thư (căn cước công dân), địa chỉ nhà ở, số tài khoản ngân hàng, mã OTP trên điện thoại cá nhân... cho bất kỳ ai không quen biết hoặc khi chưa biết rõ nhân thân, lai lịch. 

Trước những thông tin đe dọa, uy hiếp không nên vội vàng chuyển tiền vào các tài khoản theo yêu cầu của các đối tượng mà trao đổi với người thân, bạn bè và thông báo ngay với lực lượng công an gần nhất để chủ động phòng ngừa, đấu tranh…

PV

Cảnh giác với hành vi giả danh Công an để lừa đảo chiếm đoạt tài sản

VĂN QUANG

Cảnh giác với hành vi giả danh Công an để lừa đảo chiếm đoạt tài sản

CHƯA SỬA

5. Nhận nuôi trẻ mồ côi có được hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng?

(LSVN) - Tôi có nhận một cháu nhỏ (8 tuổi) mồ côi do bố mẹ không may mất sớm. Trường hợp cháu có được hưởng trợ cấp xã hội hay không?

Liên quan đến vấn đề này, theo Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội (LĐTBXH), Điều 5, Nghị định số 20/2021/NĐ-CP ngày 15/3/2021 quy định về đối tượng bảo trợ xã hội hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng như sau:

1. Trẻ em dưới 16 tuổi không có nguồn nuôi dưỡng thuộc một trong các trường hợp sau đây:

a) Bị bỏ rơi chưa có người nhận làm con nuôi;

b) Mồ côi cả cha và mẹ;

c) Mồ côi cha hoặc mẹ và người còn lại bị tuyên bố mất tích theo quy định của pháp luật;

d) Mồ côi cha hoặc mẹ và người còn lại đang hưởng chế độ chăm sóc, nuôi dưỡng tại cơ sở trợ giúp xã hội, nhà xã hội;

đ) Mồ côi cha hoặc mẹ và người còn lại đang trong thời gian chấp hành án phạt tù tại trại giam hoặc đang chấp hành quyết định xử lý vi phạm hành chính tại trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc;

e) Cả cha và mẹ bị tuyên bố mất tích theo quy định của pháp luật;

g) Cả cha và mẹ đang hưởng chế độ chăm sóc, nuôi dưỡng tại cơ sở trợ giúp xã hội, nhà xã hội;

h) Cả cha và mẹ đang trong thời gian chấp hành án phạt tù tại trại giam hoặc đang chấp hành quyết định xử lý vi phạm hành chính tại trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc;

i) Cha hoặc mẹ bị tuyên bố mất tích theo quy định của pháp luật và người còn lại đang hưởng chế độ chăm sóc, nuôi dưỡng tại cơ sở trợ giúp xã hội, nhà xã hội;

k) Cha hoặc mẹ bị tuyên bố mất tích theo quy định của pháp luật và người còn lại đang trong thời gian chấp hành án phạt tù tại trại giam hoặc đang chấp hành quyết định xử lý vi phạm hành chính tại trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc;

l) Cha hoặc mẹ đang hưởng chế độ chăm sóc, nuôi dưỡng tại cơ sở trợ giúp xã hội và người còn lại đang trong thời gian chấp hành án phạt tù tại trại giam hoặc đang chấp hành quyết định xử lý vi phạm hành chính tại trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc.

2. Người thuộc diện quy định tại khoản 1 Điều này đang hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng mà đủ 16 tuổi nhưng đang học văn hóa, học nghề, trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học văn bằng thứ nhất thì tiếp tục được hưởng chính sách trợ giúp xã hội cho đến khi kết thúc học, nhưng tối đa không quá 22 tuổi.

3. Trẻ em nhiễm HIV/AIDS thuộc hộ nghèo.

4. Người thuộc diện hộ nghèo, hộ cận nghèo chưa có chồng hoặc chưa có vợ; đã có chồng hoặc vợ nhưng đã chết hoặc mất tích theo quy định của pháp luật và đang nuôi con dưới 16 tuổi hoặc đang nuôi con từ 16 đến 22 tuổi và người con đó đang học văn hóa, học nghề, trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học văn bằng thứ nhất quy định tại khoản 2 Điều này (sau đây gọi chung là người đơn thân nghèo đang nuôi con).

Như vậy, theo quy định trên, cháu bạn nhận nuôi nằm trong đối tượng bảo trợ xã hội hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng. Bạn căn cứ theo các quy định trên và liên hệ với phòng lao động thương binh xã hội huyện hoặc cán bộ phụ trách mảng lao động, thương binh xã hội tại xã phường để được hướng dẫn làm thủ tục hồ sơ và các mức hưởng hiện tại theo từng địa phương.

PV

6. Quy định về phục hồi điều tra vụ án hình sự đã tạm đình chỉ điều tra

(LSVN) - 

Theo Điều 235 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, khi có lý do để hủy bỏ quyết định đình chỉ điều tra hoặc quyết định tạm đình chỉ điều tra thì Cơ quan điều tra ra quyết định phục hồi điều tra, nếu chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự.

Nếu việc điều tra bị đình chỉ theo quy định tại khoản 5 và khoản 6 Điều 157 của Bộ luật Tố tụng hình sự mà bị can không đồng ý và yêu cầu điều tra lại thì Cơ quan điều tra hoặc Viện kiểm sát cùng cấp ra quyết định phục hồi điều tra.

Trong thời hạn 02 ngày kể từ ngày ra quyết định phục hồi điều tra, Cơ quan điều tra phải gửi quyết định này cho Viện kiểm sát cùng cấp, bị can, người bào chữa hoặc người đại diện của bị can; thông báo cho bị hại, đương sự và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ.

Điều 235 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 cũng được hướng dẫn bởi Điều 7 Thông tư liên tịch số 01/2020/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BQP-BNN&PTNT-BTC-BTP. Theo đó, định kỳ (hàng tháng, 06 tháng, 01 năm) cơ quan có thẩm quyền điều tra và Viện kiểm sát phối hợp rà soát, đối chiếu, phân loại các vụ án tạm đình chỉ điều tra và tùy từng trường hợp xử lý theo quy định. Trong đó, đối với vụ án có lý do để hủy bỏ quyết định tạm đình chỉ điều tra và vẫn còn thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự thì cơ quan có thẩm quyền điều tra ra quyết định phục hồi điều tra theo quy định tại Điều 235 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Quyết định phục hồi điều tra được thực hiện theo mẫu do Bộ trưởng Bộ Công an quy định;

HỒNG HẠNH

Yêu cầu thí sinh cam kết đặt nguyện vọng 1 hay ‘đặt cọc’ là vi phạm quy chế