/ Nghiên cứu - Trao đổi
/ Xây dựng pháp luật bảo đảm sự lãnh đạo của đảng trong việc thực hiện quyền tư pháp

Xây dựng pháp luật bảo đảm sự lãnh đạo của đảng trong việc thực hiện quyền tư pháp

03/06/2023 08:18 |

(LSVN) - Nghị quyết số 27-NQ-TW về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới đã đề ra mục tiêu đến năm 2030 “Hoàn thành cơ bản việc xây dựng nền tư pháp chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân”. Đây là chủ trương của Đảng trong tình hình mới cần phải được nghiên cứu, tìm ra giải pháp để bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng trong việc thực hiện quyền tư pháp. Bài viết đưa ra bốn giải pháp đột phá trong xây dựng pháp luật, làm cơ sở để tổ chức thực hiện, đưa Nghị quyết của Đảng vào cuộc sống.

Ảnh minh họa.

Sau 15 năm thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Bộ Chính trị đã chỉ đạo tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết, ban hành Kết luận số 84-KL/TW để xác định những nhiệm vụ tiếp tục cải cách tư pháp. Trên tinh thần đó, Nghị quyết số 27-NQ-TW về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới đã đề ra mục tiêu đến năm 2030 “Hoàn thành cơ bản việc xây dựng nền tư pháp chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân, bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân”. Đây là chủ trương của Đảng trong tình hình mới cần phải được nghiên cứu, tìm ra giải pháp đột phá để bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng trong việc thực hiện quyền tư pháp.

Các nhóm nhiệm vụ cần thực hiện

(1) Hoàn thiện chính sách, pháp luật liên quan đến tư pháp, bảo đảm tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Hoàn thiện cơ chế phòng ngừa, ngăn chặn, xử lý mọi hành vi can thiệp trái pháp luật vào hoạt động tư pháp; bảo đảm tính độc lập của tòa án theo thẩm quyền xét xử, thẩm phán, hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.

(2) Xây dựng chế định tố tụng tư pháp lấy xét xử là trung tâm, tranh tụng là đột phá; bảo đảm tố tụng tư pháp dân chủ, công bằng, văn minh, pháp quyền, hiện đại, nghiêm minh, dễ tiếp cận, bảo đảm và bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Áp dụng hiệu quả thủ tục tố tụng tư pháp rút gọn; kết hợp các phương thức phi tố tụng tư pháp với các phương thức tố tụng tư pháp. Đổi mới và nâng cao hiệu quả cơ chế nhân dân tham gia xét xử tại tòa án. Tổng kết thực tiễn, nghiên cứu hoàn thiện quy định pháp luật về khởi kiện vụ án dân sự trong trường hợp chủ thể các quyền dân sự là nhóm dễ bị tổn thương hoặc trường hợp liên quan đến lợi ích công nhưng không có người đứng ra khởi kiện.

(3) Hoàn thiện cơ chế để khắc phục tình trạng quan hệ giữa các cấp tòa án là quan hệ hành chính, bảo đảm độc lập giữa các cấp xét xử và độc lập của thẩm phán, hội thẩm khi xét xử. Phân định rõ nhiệm vụ xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm, xét lại bản án, quyết định theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm; xây dựng tòa án điện tử. Xác định thẩm quyền của tòa án để thực hiện đầy đủ, đúng đắn quyền tư pháp; mở rộng thẩm quyền của tòa án trong xét xử các vi phạm hành chính, quyết định một số vấn đề liên quan đến quyền con người, quyền công dân. Nghiên cứu làm rõ thẩm quyền hội đồng xét xử khởi tố vụ án tại phiên tòa, những trường hợp tòa án thu thập chứng cứ trong hoạt động xét xử.

(4) Hoàn thiện thể chế để viện kiểm sát nhân dân thực hiện tốt chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp; hoàn thiện cơ chế tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, tăng cường kiểm soát bên trong việc thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động xét xử phù hợp vởi nguyên tắc thẩm phán, hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.

(5) Tiếp tục rà soát, điều chỉnh, hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của cơ quan điều tra và các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra theo hướng tinh, gọn, chuyên nghiệp, chất lượng, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ được giao và góp phần bảo đảm quyền con người, quyền công dân đối với người bị giữ, bị bắt, tạm giữ, tạm giam theo quy định của pháp luật. Nghiên cứu hoàn thiện cơ chế cơ quan điều tra kiến nghị xem xét, giải quyết trường hợp các lệnh, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra bị viện kiểm sát huỷ bỏ hoặc không phê chuẩn không phù họp với quy định của pháp luật.

(6) Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống cơ quan thi hành án. Hoàn thiện cơ chế thi hành án hình sự theo hướng nâng cao hơn nữa hiệu quả công tác quản lý giáo dục, cải tạo phạm nhân, quản lý, giám sát, giáo dục người chấp hành án hình sự tại cộng đồng; bảo đảm và bảo vệ tốt hơn quyền con người, quyền công dân đối với người chấp hành án theo quy định của pháp luật. Hoàn thiện cơ chế nâng cao chất lượng, hiệu quả thi hành án dân sự, hành chính theo hướng rút ngắn thời gian, giảm thiểu chi phí. Nâng cao hiệu quả phối hợp giữa các cơ quan trong thi hành án hình sự, dân sự và hành chính; thực hiện xã hội hóa một số hoạt động thi hành án dân sự với cơ chế bảo đảm và lộ trình phù hợp.

(7) Hoàn thiện thể chế về Luật sư và hành nghề Luật sư, bảo đảm để Luật sư thực hiện tốt quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm theo quy định của pháp luật. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước và trách nhiệm tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp đối với Luật sư, tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong hoạt động hành nghề Luật sư. Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng và phát triển đội ngũ Luật sư có bản lĩnh chính trị vững vàng, đạo đức nghề nghiệp trong sáng, am hiểu pháp luật, giỏi về kỹ năng hành nghề và ngoại ngữ, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế. Củng cố hội luật gia các cấp, nâng cao vai trò, trách nhiệm của thành viên hội luật gia trong thực hiện nhiệm vụ đúng quy định pháp luật.

(8) Tiếp tục hoàn thiện cơ chế huy động nguồn lực để xã hội hóa và phát triển các lĩnh vực công chứng, hòa giải, trọng tài, thừa phát lại, giám định tư pháp; xây dựng đội ngũ hành nghề công chứng, hòa giải, trọng tài, thừa phát lại, giám định tư pháp đủ về số lượng và bảo đảm chất lượng, hoạt động chuyên nghiệp, tuân thủ pháp luật và chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp, đáp ứng tốt nhu cầu của xã hội.

(9) Nâng cao vai trò, tính chuyên nghiệp và chất lượng trợ giúp pháp lý, nhất là trong hoạt động tố tụng tư pháp; hiện đại hóa, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong hệ thống trợ giúp pháp lý; mở rộng đối tượng được trợ giúp pháp lý phù hợp với điều kiện của đất nước.

9 nhóm nhiệm vụ nói trên phù hợp các nội dung cơ bản của Chiến lược cải cách tư pháp do Đảng khởi xướng và trực tiếp lãnh đạo từ năm 2005. So với các nhiệm vụ cải cách đã đề ra trước đây, các nhiệm vụ ở giai đoạn này có nhiều điểm mới, toàn diện hơn, tập trung vào những vấn đề cốt lõi của nền tư pháp trong Nhà nước pháp quyền XHCN với tiêu chí: chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Theo đó, Nghị quyết số 27-NQ/TW xác định “Xây dựng chế định tố tụng tư pháp lấy xét xử là trung tâm, tranh tụng là đột phá”; “bảo đảm tính độc lập của tòa án theo thẩm quyền xét xử, thẩm phán, hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”; “Hoàn thiện cơ chế để khắc phục tình trạng quan hệ giữa các cấp tòa án là quan hệ hành chính, bảo đảm độc lập giữa các cấp xét xử và độc lập của thẩm phán, hội thẩm khi xét xử”; “Phân định rõ nhiệm vụ xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm, xét lại bản án, quyết định theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm”; “Xác định thẩm quyền của tòa án để thực hiện đầy đủ, đúng đắn quyền tư pháp”; “mở rộng thẩm quyền của tòa án trong xét xử các vi phạm hành chính, quyết định một số vấn đề liên quan đến quyền con người, quyền công dân. Nghiên cứu làm rõ thẩm quyền hội đồng xét xử khởi tố vụ án tại phiên tòa, những trường hợp tòa án thu thập chứng cứ trong hoạt động xét xử”. Như vậy, thực tiễn công cuộc đổi mới, phát triển của đất nước và quá trình hoàn thiện pháp luật bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng trong việc thực hiện quyền tư pháp cho thấy bên cạnh những thuận lợi, thời cơ, còn có những khó khăn, thách thức đặt ra cần phải giải quyết hiện nay là:

Thứ nhất, yêu cầu của nhân dân đặt ra đối với việc thực hiện quyền tư pháp ngày càng cao, buộc tòa án và các cơ quan tham gia thực hiện quyền tư pháp phải không ngừng cố gắng để thật sự là chỗ dựa của người dân trong việc bảo vệ công lý, quyền con người, quyền công dân, xứng đáng là nơi để nhân dân gửi trọn niềm tin. Do đó, các giải pháp đột phá trong xây dựng pháp luật nhằm bảo đảm để các cấp ủy đảng từ Trung ương đến địa phương nâng cao chất lượng lãnh đạo của mình đối với các cơ quan tư pháp; bảo đảm sự lãnh đạo chặt chẽ, thường xuyên trong việc thực hiện quyền tư pháp để vừa nâng cao chất lượng xét xử, vừa tăng niềm tin của nhân đối với tòa án nhân dân.

Thứ hai, ở nước ta, nền tư pháp nói chung và việc thực hiện quyền tư pháp nói riêng đang có một số mặt lạc hậu so với mặt bằng chung của thế giới, cả về năng lực, trình độ và điều kiện bảo đảm. Do đó, nhu cầu hoàn thiện pháp luật bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng trong việc thực hiện quyền tư pháp cần toàn diện hơn, cụ thể hơn và cũng cần khách quan, minh bạch hơn. Trong đó, tập trung giải quyết những vấn đề đang tồn tại, mâu thuẫn lớn giữa sự gia tăng mạnh mẽ về số lượng công việc phải giải quyết với yêu cầu tinh giản biên chế, tinh gọn bộ máy cơ quan tư pháp; giữa thực hiện chế độ chính sách theo quy định hiện hành với việc đẩy mạnh cải cách tư pháp, thu hút nhân tài, tránh để chảy máu chất xám trong hệ thống tòa án; làm rõ yêu cầu vừa bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, vừa bảo đảm nguyên tắc độc lập xét xử của tòa án và các hoạt động của các cơ quan tư pháp.

Thứ ba, xu hướng các loại tội phạm, tranh chấp, khiếu kiện, nhất là tội phạm và tranh chấp phi truyền thống, các vụ việc có yếu tố nước ngoài ngày càng tăng; đồng thời yêu cầu thực hiện các cam kết quốc tế, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia đòi hỏi phải nhanh chóng hoàn thiện pháp luật, nhất là hoàn thiện thể chế tư pháp, tiếp tục cải cách tư pháp để thích ứng. Do đó, vấn đề đặt ra cần giải quyết là phải nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng trong việc đề ra đường lối, chủ trương cải cách tư pháp vừa phù hợp với từng giai đoạn phát triển, vừa giải quyết những vấn đề khó khăn, phức tạp trước mắt và lâu dài.

Giải pháp đột phá xây dựng và hoàn thiện pháp luật để bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng trong việc thực hiện quyền tư pháp ở Việt Nam giai đoạn mới

Trong tiến trình cải cách tư pháp, Đảng đã đề ra một nội dung quan trọng là hoàn thiện thể chế và bộ máy cơ quan tư pháp. Đây là chủ trương cần phải được triển khai thực hiện trong thực tiễn nhằm thúc đẩy mục tiêu hoàn thành cơ bản việc xây dựng nền tư pháp ở Việt Nam giai đoạn mới. Muốn vậy, việc làm trước mắt là phải tìm ra giải pháp đột phá trong xây dựng pháp luật dựa trên các triết lý, lý luận của xây dựng và hoàn thiện pháp luật góp phần thúc đẩy cải cách tư pháp trong Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Đồng thời, cần căn cứ vào điều kiện thực tiễn, rào cản của quá trình cải cách, như: “Nhận thức về ví trí, vai trò của tòa án chưa thực sự phù hợp, thống nhất; các tòa án về cơ bản chưa được tổ chức độc lập theo thẩm quyền xét xử; tổ chức một số đơn vị giúp việc tại Tòa án nhân dân Tối cao chưa khoa học, chức năng, nhiệm vụ của một số đơn vị còn chưa phù hợp; chưa có thiết chế và cơ chế pháp lý đầy đủ để xây dựng và triển khai tòa án điện tử, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong thực tiễn; quy trình bổ nhiệm, tái nhiệm thẩm phán còn ảnh hưởng đến việc thực hiện nguyên tắc độc lập xét xử của thẩm phán; chức năng, nhiệm vụ, thành phần của Hội đồng Tuyển chọn, giám sát thẩm phán quốc gia chưa thực sự phù hợp; chế độ, chính sách đãi ngộ đối với các chức danh tư pháp còn thấp, chưa tương xứng với tính chất nghề nghiệp; cơ chế phân bổ, phê duyệt ngân sách cho tòa án còn kéo dài qua nhiều thủ tục”(1).

Với quan niệm, giải pháp đột phá xây dựng và hoàn thiện pháp luật nhằm bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng trong việc thực hiện quyền tư pháp được hiểu là những biện pháp mang tính chất mở đường cho việc hoàn thiện pháp luật liên quan đến việc thực hiện quyền tư pháp và tổ chức thực hiện pháp luật nhằm hoàn thiện điều kiện pháp lý để Đảng tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo quá trình cải cách tư pháp. Cụ thể như sau:

Thứ nhất, đột phá về hoàn thiện thể chế tổ chức, bộ máy tư pháp và thủ tục tư pháp. Quá trình sửa đổi, bổ sung Luật Tổ chức tòa án nhân dân năm 2014 cần chú trọng tới giải pháp hoàn thiện tổ chức tòa án theo thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc vào đơn vị hành chính. Do đó, đột phá trong xây dựng pháp luật cần đáp ứng nhu cầu cấp bách tổ chức lại hệ thống tòa án, không để cho tòa án ở cấp sơ thẩm bị chi phối, tác động bởi các cơ quan hành chính cấp huyện, tòa án xét xử ở cấp phúc thẩm bị chi phối, tác động bởi cơ quan hành chính cấp tỉnh; đồng thời, sửa đổi Luật để hoàn thiện cơ chế quản trị tòa án, không để yếu tố hành chính trong nội bộ tòa án chi phối hoạt động xét xử. Bên cạnh đó, cần sửa Luật để có cơ sở linh hoạt trong việc sắp xếp, tinh gọn hệ thống tòa án nhân dân, không để tình trạng quá tải, áp lực trong công tác chuyên môn dẫn đến án hiện tượng án tồn đọng ở các cấp, nhất là cấp phúc thẩm cũng như tình trạng đơn kháng nghị không được xem xét đang ngày càng tăng. Thứ hai, đột phá về thể chế nguồn nhân lực tư pháp. Cần rà soát để bổ sung, điều chỉnh quy định về tiêu chuẩn các chức danh tư pháp như thẩm phán, thẩm tra viên, thư ký và các chức vụ trong hệ thống tòa án như chánh án, phó chánh án… Các tiêu chuẩn này cần rõ ràng hơn trong các cấp tòa án để quá trình điều động, luân chuyển, bổ nhiệm cán bộ được minh bạch, dễ giám sát.

Cần phân định rõ ngạch bậc công chức đối với các vị trí, việc làm mang tính chất hành chính với chức danh tư pháp, nhất là đối với chức danh thẩm phán. Với yêu cầu thẩm phán là nghề đặc thù, thẩm phán vừa phải là người nắm vững pháp luật, vừa có kỹ năng, kinh nghiệm thực tiễn, biến tri thức có được thành niềm tin nội tâm để tự tin, độc lập khi xét xử, cần sửa đổi, bổ sung Luật Giáo dục và đào tạo, xác định việc đào tạo nguồn nhân lực cho chức danh thẩm phán là loại hình đào tạo đặc biệt, “đào tạo nhân tài” để có quy định thống nhất về chuẩn đào tạo và các biện pháp kiểm soát chất lượng đào tạo đặc biệt. Các chương trình đào tạo các chức danh tư pháp cũng cần hướng đến sản phẩm đào tạo có chất lượng cao.

Đồng thời nâng cao chất lượng đào tạo, quy mô đào tạo nghề thẩm phán, thẩm tra viên, để bảo đảm các thẩm phán, thẩm tra viên làm tốt nhiệm vụ xét xử công minh, khách quan, bảo vệ công lý. Có như vậy, nguồn nhân lực tư pháp mới thực sự có chất lượng, đáp ứng yêu cầu độc lập trong xét xử và chỉ tuân theo pháp luật.

Thứ ba, đột phá thứ ba trong xây dựng pháp luật, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng trong việc thực hiện quyền tư pháp là cần xây dựng Luật Ban hành và áp dụng án lệ. Luật này cần quy định chặt chẽ, khoa học về các hoạt động lựa chọn, công bố án lệ và tạo thuận lợi cho việc áp dụng án lệ(2).

Với giải pháp này, việc ban hành sẽ đa dạng, khách quan, minh bạch, kêu gọi được nhiều chủ thể tham gia, không chỉ là các thẩm phán, thẩm tra viên, hội thẩm nhân dân mà còn có sự tham gia ý kiến rộng rãi của viện kiểm sát nhân dân, Bộ Công an (cơ quan điều tra), Quốc hội, Chính phủ. Cần nghiên cứu ban hành quy định về “tiền án lệ” để các thẩm phán, chuyên gia, Luật sư trao đổi và bình luận khoa học về các tình huống pháp lý giả định, các tình huống pháp lý có nhiều quan điểm áp dụng pháp luật còn nhiều quan điểm khác nhau, tạo thành hệ thống dữ liệu cho xây dựng án lệ. Đồng thời, thường xuyên sơ kết, tổng kết việc thực hiện án lệ để rút kinh nghiệm, hoàn thiện quá trình xây dựng án lệ đáp ứng yêu cầu của thực tiễn xét xử.

Thứ tư, đột phá trong đổi mới tư duy và phương pháp lãnh đạo của Đảng trong xây dựng pháp luật, bảo đảm thực hiện quyền tư pháp. Đảng lãnh đạo bằng việc nâng cao chất lượng và tính khả thi của các chiến lược, chú trọng định hướng chính sách và quá trình thể chế hóa chủ trương, đường lối thành pháp luật một cách kịp thời, nhất quán; làm tốt công tác tư tưởng đối với các cấp ủy, tổ chức đảng và từng đảng viên trong việc tôn trọng sự lãnh đạo của Đảng và mục đích lãnh đạo của Đảng đối với cơ quan thực hiện quyền tư pháp nhằm bảo đảm tòa án độc lập, thẩm phán và hội thẩm xét xử độc lập, chỉ tuân theo pháp luật. Đảng không bao biện, làm thay, không chỉ đạo xét xử; các cấp ủy Đảng có trách nhiệm giới thiệu những đảng viên ưu tú, có năng lực và phẩm chất làm nguồn chức danh tư pháp để Đảng tiếp tục bồi dưỡng, đào tạo, theo dõi và đánh giá, sử dụng và bổ nhiệm, điều động và luân chuyển phù hợp với yêu cầu công việc và phù hợp với từng đảng viên trong cơ quan tư pháp; Đảng chú trọng lãnh đạo bằng công tác kiểm tra, giám sát tổ chức đảng và đảng viên trong các tòa án quá trình thực hiện quyền tư pháp; khen thưởng và kỷ luật kịp thời để nâng cao uy tín của đảng viên trong thực hiện quyền tư pháp cũng như củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng trong việc lãnh đạo thực hiện quyền tư pháp.

(1) Khắc phục hạn chế, bất cập trong thực tiễn thi hành Luật Tổ chức tòa án nhân dân năm 2014, https://kiemsat.vn/khac-phuc- han-che-bat-cap-trong-thuc-tien-thi-hanh-luat-to-chuc-toa-an-nhan-dan-nam-2014-65198.html

(2) Hiện nay, hoạt động ban hành án lệ dựa trên quy định của Nghị quyết số 04/NQ-HĐTP về quy trình lựa chọn, công bố và áp dụng án lệ của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao ngày 18/6/2019. Đây là hình thức văn bản có giá trị pháp lý thấp hơn đạo luật.

Tài liệu tham khảo:

  1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban Chấp hành Trung ương, Nghị quyết số 27-NQ/TW về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới.
  2. PGS.TS Nguyễn Hòa Bình, Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Chiến lược cải cách tư pháp, https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/chinh-tri-xay-dung-dang/-/2018/815637/doi-moi-phuong- thuc-lanh-dao-cua-dang-trong-chien-luoc-cai-cach-tu-phap.aspx.
  3. Viện Khoa học pháp lý, Hoàn thiện cơ chế quản trị tòa án để đảm bảo tính độc lập theo tinh thần Hiến pháp năm 2013, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, năm 2017.
  4. PGS.TS Nguyễn Minh Tuấn, Bàn về án lệ và việc thực hiện án lệ ở Việt Nam, http://lapphap.vn/Pages/ TinTuc/210998/Ban-ve-an-le-va-viec-ap-dung-an-le-o-Viet-Nam.html.

PGS.TS TRƯƠNG THỊ HỒNG HÀ

Phó Vụ trưởng Vụ Nghiên cứu tổng hợp

Phó Chủ tịch Hội đồng Khoa học Ban Nội chính Trung ương

Bàn về quy định hòa giải tranh chấp đất đai trong dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi)

Bùi Thị Thanh Loan