/ Nghiên cứu - Trao đổi
/ Một số đánh giá về mô hình tố tụng hình sự tại Việt Nam

Một số đánh giá về mô hình tố tụng hình sự tại Việt Nam

02/04/2024 06:35 |

(LSVN) - Có thể khẳng định, hiện nay mô hình tố tụng của nước ta là mô hình tố tụng pha trộn thiên về thẩm vấn chứ không đơn thuần theo mô hình tố tụng thẩm vấn truyền thống như trước đây. Điều này được minh chứng tại văn bản cao nhất là Nghị quyết 49/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến 2020 đã đặt ra mục tiêu “hoàn thiện các thủ tục tố tụng tư pháp, bảo đảm tính đồng bộ, dân chủ, công khai, minh bạch, tôn trọng và bảo vệ quyền con người”.

Ảnh minh hoạ. 

Khái niệm “mô hình tố tụng hình sự” được hiểu là quá trình diễn ra các hoạt động tố tụng hình sự được xem xét theo hai khía cạnh: Khía cạnh thứ nhất liên quan đến việc phân chia quá trình đó theo các giai đoạn như thế nào và mối quan hệ giữa các giai đoạn đó; khía cạnh thứ hai liên quan đến việc xác định những chủ thể nào tham gia vào từng giai đoạn tố tụng, nhiệm vụ quyền hạn, vai trò của từng chủ thể và mối quan hệ giữa chúng trong từng giai đoạn. Dựa vào sự khác biệt ở từng khía cạnh, người ta phân chia các mô hình tố tụng hình sự thành các loại khác nhau.

Hiện tại trên thế giới có ba mô hình tố tụng hình sự phổ biến là mô hình tố tụng “tranh tụng” (adversarial procedure), mô hình “thẩm vấn” (inquisitorial model), và mô hình “pha trộn” (mixed model).

Đặc điểm của mô hình tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành

Từ Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 trở về trước, mô hình tố tụng hình sự Việt Nam là mô hình tố tụng thẩm vấn. So sánh hai mô hình tố tụng thẩm vấn và tố tụng tranh tụng thì cả hai mô hình đều có những ưu điểm vượt trội nhất định. Nghiên cứu khoa học pháp lý, mô hình tố tụng tranh tụng có một quy trình tố tụng (đặc biệt trong quá trình xét xử) thể hiện:

- Tính công bằng cao giữa bên buộc tội và bên gỡ tội (từ đó giúp giảm đi sự lạm quyền của các cơ quan tiến hành tố tụng);

- Thể hiện mức độ cao hơn việc tôn trọng quyền cơ bản của công dân (quyền suy đoán vô tội của người dân được tôn trọng).

Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, pháp luật của các quốc gia có xu hướng giảm những yếu tố đặc thù để xích lại gần nhau hơn nên không còn tồn tại mô hình tố tụng thẩm vấn hay tranh tụng thuần túy mà đã có sự pha trộn, đan xen, kết hợp, giao thoa lẫn nhau để tiếp nhận những yếu tố tích cực tiến bộ nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của công cuộc phòng, chống tội phạm và đảm bảo quyền con người.

Có thể khẳng định, hiện nay mô hình tố tụng của nước ta là mô hình tố tụng pha trộn thiên về thẩm vấn chứ không đơn thuần theo mô hình tố tụng thẩm vấn truyền thống như trước đây. Điều này được minh chứng tại văn bản cao nhất là Nghị quyết 49/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến 2020 đã đặt ra mục tiêu “hoàn thiện các thủ tục tố tụng tư pháp, bảo đảm tính đồng bộ, dân chủ, công khai, minh bạch, tôn trọng và bảo vệ quyền con người”. Để đạt được mục tiêu này, nhiều nhiệm vụ đã được đặt ra đối với công tác cải cách tư pháp, trong đó có nhiệm vụ đổi mới phiên tòa xét xử và nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử.

Đây được coi là khâu đột phá của hoạt động tư pháp. Với chủ trương như vậy, có thể hiểu rằng, việc đưa các yếu tố tranh tụng vào mô hình tố tụng hình sự (tố tụng hình sự) cũng sẽ là khâu đột phá nhằm nâng cao chất lượng của tố tụng hình sự Việt Nam.

Những ưu điểm, hạn chế của mô hình tố tụng hình sự Việt Nam

Ưu điểm

Một là, tạo điều kiện cho các cơ quan tiến hành tố tụng chủ động trong việc điều tra, truy tố, xét xử. Với mục tiêu tìm đến sự thật khách quan của vụ án, việc tiếp tục xác định vai trò tích cực, chủ động của Tòa án trong quá trình giải quyết vụ án hình sự ở mức độ nhất định là phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam.

Hai là, tố tụng hình sự Việt Nam được phân chia thành nhiều giai đoạn và thẩm quyền mỗi cơ quan tiến hành tố tụng được phân định tương đối rành mạch. Mô hình tố tụng Việt Nam hiện nay được xây dựng dựa trên nguyên tắc tập trung, thống nhất, thể hiện qua sự phân công, phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan tố tụng: Viện kiểm sát, Cơ quan điều tra và Tòa án. Mỗi cơ quan có chức năng, nhiệm vụ riêng biệt, nhưng cùng hướng đến mục tiêu chung là giải quyết vụ án đúng pháp luật, bảo vệ quyền, lợi hợp pháp của Nhà nước, tổ chức, cá nhân. Những năm qua, thực hiện yêu cầu cải cách tư pháp, chất lượng công tác phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự có những chuyển biến tích cực. 

Các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án thực hiện đúng các quy định của pháp luật, không để xảy ra oan sai, bỏ lọt tội phạm. Điều tra, truy tố và xét xử đúng người, đúng tội và đúng pháp luật. Phối hợp, kịp thời giải quyết, tháo gỡ những vướng mắc, khó khăn qua từng vụ việc, nhất là các vụ án quan trọng, phức tạp. Tiến độ, chất lượng các hoạt động được thực hiện đảm bảo theo quy định của pháp luật, không để xảy ra các khiếu kiện, tố cáo xuất phát từ những thiếu sót trong hoạt động tư pháp.

Ba là, bổ sung một số quy định bảo đảm tốt hơn quyền con người, nhất là quyền của người bị buộc tội trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Bộ luật Tố tụng hình sự đã quy định chặt chẽ hơn các trình tự, thủ tục, thời hạn giải quyết vụ án hình sự và đặc biệt là bổ sung một số quyền để người bị buộc tội thực hiện tốt hơn quyền bào chữa của mình; quy định chặt chẽ hơn căn cứ và điều kiện áp dụng biện pháp tạm giam, sửa đổi một số biện pháp ngăn chặn thay thế biện pháp tạm giam nhằm hạn chế việc áp dụng biện pháp tạm giam; quy định việc khởi tố bị can phải được Viện Kiểm sát phê chuẩn; thu hẹp phạm vi người có thẩm quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam (bỏ thẩm quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam của phó trưởng công an cấp huyện, thẩm phán chủ tọa phiên tòa cấp tỉnh trở lên); bổ sung nguyên tắc bảo đảm quyền được bồi thường và phục hồi danh dự do cơ quan tố tụng gây ra, nguyên tắc hoạt động của cơ quan tố tụng và người tiến hành tố tụng phải chịu sự giám sát của cơ quan nhà nước và giám sát của xã hội.

Bốn là, bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 có nhiều nội dung sửa đổi, bổ sung bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử. Nhằm khắc phục tình trạng chất lượng tranh tụng còn hạn chế ở một số phiên tòa có đông bị cáo, có nhiều Luật sư tham gia, do chỉ cho phép tối đa hai kiểm sát viên tham gia như Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, Bộ luật mới sửa đổi theo hướng không hạn chế số lượng kiểm sát viên tham gia phiên tòa. Số lượng cụ thể kiểm sát viên do Viện trưởng Viện Kiểm sát cùng cấp quyết định, trên cơ sở căn cứ vào tính chất, đặc điểm của từng vụ án (Điều 289). 

Để có cơ sở tranh luận dân chủ tại phiên tòa, Bộ luật bổ sung quy định nội dung luận tội của kiểm sát viên (Điều 321) và nhấn mạnh trách nhiệm của kiểm sát viên là phải đưa ra chứng cứ, tài liệu và lập luận để đối đáp đến cùng từng ý kiến của bị cáo, người bào chữa, người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa. Đồng thời, bổ sung trách nhiệm của Hội đồng xét xử là phải lắng nghe, ghi nhận đầy đủ ý kiến của kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, người tham gia tranh luận tại phiên tòa để đánh giá khách quan, toàn diện sự thật của vụ án. Trường hợp không chấp nhận ý kiến của những người tham gia phiên tòa thì Hội đồng xét xử phải nêu rõ lý do và được ghi trong bản án (Điều 322).

Năm là, đảm bảo tính công khai, minh bạch trong hoạt động tố tụng. Trên cơ sở Nghị quyết số 49-NQ/TW về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 và Kết luận số 92-KL/TW ngày 12/3/2014 của Bộ Chính trị về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW Hiến pháp năm 2013 xác định Tòa án có vai trò trung tâm trong thực hiện quyền tư pháp (Điều 102) đã phản ánh nhu cầu công khai, minh bạch trong hoạt động xét xử của Tòa án Việt Nam. Trên cơ sở Hiến pháp quy định việc công khai, minh bạch trong hoạt động tư pháp,Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định thủ tục giải quyết vụ án hướng tới bảo đảm tính công khai, minh bạch trong hoạt động giải quyết vụ án đồng thời quy định trách nhiệm giải trình hoạt động tư pháp của các cơ quan tư pháp.

Các nguyên tắc Tòa án xét xử kịp thời, công bằng, công khai (Điều 25 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015); Nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong xét xử (Điều 26 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015)… được quy định bảo đảm cho hoạt động tư pháp được tiến hành công khai, minh bạch và khẳng định trách nhiệm giải trình của các cơ quan tư pháp. Thủ tục tố tụng hiện hành ở mức độ nào đó đã ấn định tính công khai, minh bạch và trách  nhiệm giải trình của hệ thống tư pháp Việt Nam, chẳng hạn các phiên xử được tổ chức công khai ngoại trừ trường hợp liên quan đến danh dự cá nhân hoặc thuần phong mỹ tục, hoặc các bên liên quan được quyền xuất trình chứng cứ và tranh luận công khai tại phiên xử. 

Hạn chế

Một là, mô hình tố tụng hình sự Việt Nam đã trao quyền quá lớn cho các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc giải quyết vụ án hình sự, trong các giai đoạn tố tụng vẫn mang nặng tính thẩm vấn, quyền uy. Điều tra, thẩm vấn là phương pháp tố tụng đặc trưng của mô hình tố tụng hình sự thẩm vấn. Bộ luật Tố tụng hình sự hiện hành việc sử dụng tối đa phương pháp điều tra, thẩm vấn trong các giai đoạn tố tụng, kể cả giai đoạn xét xử tại phiên tòa là một trong những nguyên nhân dẫn đến hạn chế tranh luận, tranh tụng, hạn chế sự tham gia của người bào chữa, tạo thói quen thiên về sử dụng biện pháp lấy lời khai, hỏi cung hơn là việc tiến hành các biện pháp điều tra khác hiện nay. Những quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành đang ở trạng thái tạo ra sự chủ quan cho các cơ quan tố tụng và người tiến hành tố tụng trong mục đích đi tìm sự thật của vụ án.

Mặc dù nguyên tắc được coi trọng là nguyên tắc xử lý công minh, yêu cầu không bỏ lọt tội phạm đi liền với yêu cầu không làm oan người vô tội, nhưng đồng thời pháp luật tố tụng vẫn còn tạo cơ sở hợp pháp cho sự độc quyền chân lý và sự chủ quan.

Hai là, mô hình tố tụng hình sự Việt Nam sử dụng hồ sơ vụ án là chứng cứ nên khi xét xử Thẩm phán, Kiểm sát viên và những người tiến hành tố tụng khác đều dựa vào hồ sơ là chính và chuẩn bị trước các quyết định về vụ án làm cho việc xét xử mang nặng tính hình thức. Thẩm phán còn lệ thuộc vào kết quả điều tra ban đầu, những thông tin tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Trong nhiều trường hợp, Hội đồng xét xử tin vào kết quả điều tra có trong hồ sơ vụ án nên có thành kiên bị cáo có tội, từ đó đặt ra những câu hỏi mang tính áp đặt, buộc bị cáo khai đúng với lời khai trước đó... Từ đó dẫn đến tình trạng bản án được xét xử theo Kết luận của Cơ quan điều tra và Cáo trạng của Viện kiểm sát.

Ba là, mô hình tố tụng hình sự Việt Nam chưa có sự phân định rành mạch về chức năng cơ bản trong tố tụng hình sự. Mô hình tố tụng hình sự nước ta vẫn còn những hạn chế trong việc đáp ứng yêu cầu phân định đúng đắn thẩm quyền, trách nhiệm của các cơ quan trong quản lý và xử lý các thông tin về tội phạm. Pháp luật tố tụng hình sự giao cho nhiều cơ quan có thẩm quyền tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố. Các tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố sau khi tiếp nhận được phải chuyển ngay cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền để tiến hành xác minh.

Tuy nhiên, pháp luật lại không quy định trách nhiệm của các Cơ quan điều tra thông báo cho Viện Kiểm sát kết quả tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm và cũng không giao cho một đầu mối quản lý các thông tin về tội phạm nêu trên. Cách giải quyết như trên dẫn đến thực tế là ở nước ta không có cơ quan nào nắm được toàn bộ tố giác, tin báo về tội phạm (không nắm được đầu vào của tình hình tội phạm). Đồng thời, Viện kiểm sát là cơ quan thực hành quyền công tố, có trách nhiệm đảm bảo mọi tội phạm phải được phát hiện và đưa ra xử lý, song với các cơ chế pháp luật hiện hành, Viện kiểm sát không đủ điều kiện thực hiện trách nhiệm quan trọng đó, không kiểm soát được “đầu vào” của tình hình tội phạm. Điều đó làm cho Viện kiểm sát ở vào thế thụ động trong thực hiện trách nhiệm công tố ngay từ khâu khởi tố vụ án; làm giảm vai trò, tác động của Viện kiểm sát đến trách nhiệm của Cơ quan điều tra trong việc phát hiện tội phạm.

Ngoài chức năng xét xử thì Tòa án, Thẩm phán còn có nghĩa vụ chứng minh vụ án, như vậy có thể việc giải quyết vụ án của Thẩm phán sẽ không khách quan do việc Thẩm phán phải tự mình đánh giá, kiểm tra chứng cứ đã có sẵn trong hồ sơ do Cơ quan điều tra thu thập, việc lập luận chứng minh của Thẩm phán dễ bị lệ thuộc vào Cáo trạng và thiên về đánh giá chứng cứ buộc tội mà xem nhẹ chứng cứ gỡ tội phát sinh tại phiên tòa. Quy định như vậy, dẫn đến tình trạng Thẩm phán làm thay công việc của Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa, ảnh hưởng đến việc tranh tụng tại phiên tòa do việc Thẩm phán vừa là chủ thể có nghĩa vụ chứng minh lại là người điều khiển tranh tụng giữa bên buộc tội và gỡ tội. Việc giao Tòa án đảm nhiệm thêm bất cứ thẩm quyền nào thuộc chức năng buộc tội hay chức năng bào chữa đều làm suy yếu vai trò của Tòa án, ảnh hưởng đến yêu cầu bảo đảm công lý, tính khách quan của quá trình thực hiện chức năng xét xử. Tuy nhiên, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đang dành cho Tòa án vai trò quá chủ động trong quá trình giải quyết vụ án hình sự và đang được giao một số thẩm quyền không phù hợp với chức năng xét xử. Cụ thể là: Có quyền khởi tố vụ án (Điều 154); Có quyền trả hồ sơ yêu cầu Viện kiểm sát điều tra bổ sung (Điều 283); Có quyền xét xử vượt quá giới hạn truy tố của Viện kiểm sát (Điều 298); Có quyền tiếp tục xét xử trong trường hợp Viện kiểm sát đã rút toàn bộ quyết định truy tố tại phiên tòa (Điều 319, 325). Những thẩm quyền nêu trên của Tòa án cho thấy, cách giải quyết của mô hình tố tụng hình sự nước ta dường như không chỉ có Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát thực hiện chức năng buộc tội mà ngay cả Tòa án cũng đang được giao thực hiện chức năng buộc tội thay cho Viện kiểm sát.

Bốn là, Bộ luật Tố tụng hình sự chưa hoàn thiện, tạo cơ chế vận hành quá trình tố tụng hình sự chưa thật sự hiệu quả. Các nguyên tắc trong Bộ luật Tố tụng hình sự chưa đầy đủ, chưa chặt chẽ và cụ thể về mặt nội dung. Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành chưa quy định tranh tụng là một nguyên tắc của hoạt động xét xử, vì vậy, trong từng điều luật tại các chương về xét xử cũng chưa thể hiện hết toàn bộ tinh thần của tranh tụng và như thế việc đảm bảo cho tranh tụng tại phiên tòa chưa đạt hiệu quả cao nhất. Quy định về việc trình bày, kiểm tra chứng cứ tại phiên tòa, để đảm bảo nguyên tắc tranh tụng, lời khai của người làm chứng cũng phải được kiểm tra tại phiên tòa chứ không chỉ dựa vào lời khai được thể hiện trong các biên bản đã được thu thập trong giai đoạn điều tra, truy tố. Tuy nhiên, Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 lại cho phép, trong trường hợp người làm chứng vắng mặt và đã có lời khai trong giai đoạn điều tra – truy tố, thì phiên tòa vẫn tiếp tục diễn ra. Ngay cả khi những lời khai đó có chứa đựng thông tin về những vấn đề quan trọng của vụ án, thì Hội đồng xét xử vẫn có quyền tùy nghi lựa chọn việc tiếp tục xét xử hay hoãn phiên tòa. Các căn cứ pháp lý làm cơ sở cho sự tùy nghi lựa chọn của Tòa án trong việc xét xử vụ án với sự vắng mặt của người làm chứng lại không được quy định. Vô hình chung, quy định này đã làm suy giảm chức năng của nguyên tắc bản án, quyết định của Tòa án phải căn cứ vào kết quả kiểm tra, đánh giá chứng cứ và kết quả tranh tụng tại phiên tòa.

Năm là, bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng khác trong tố tụng hình sự chưa được quy định đầy đủ. Pháp luật mới chỉ quy định bị can có quyền được biết mình bị khởi tố về tội gì mà chưa quy định quyền được biết các thông tin liên quan đến việc khởi tố, làm căn cứ cho việc khởi tố, quyền được biết các chứng cứ chống lại mình; mới chỉ quy định có quyền cung cấp tài liệu, đồ vật, yêu cầu mà chưa có quyền thu thập chứng cứ để bác bỏ nội dung buộc tội, quyền đối chất với những người tham gia tố tụng khác; mới chỉ quy định có quyền trình bày lời khai mà không có quyền im lặng để bảo vệ mình… Về người bào chữa, việc thực hiện chức năng bào chữa gặp nhiều khó khăn: Cơ quan tiến hành tố tụng, nhất là Cơ quan điều tra có xu hướng ngại sự có mặt của người bào chữa trong quá trình giải quyết vụ án. Việc cấp giấy chứng nhận người bào chữa, đòi hỏi nhiều giấy tờ ngoài luật định. Luật Luật sư quy định xuất trình ba loại giấy: Thẻ Luật sư, giấy yêu cầu Luật sư của khách hàng và giấy giới thiệu của tổ chức hành nghề Luật sư. 

Tuy nhiên, nhiều trường hợp, cơ quan tiến hành tố tụng còn yêu cầu nộp thêm các giấy tờ như: Hợp đồng pháp lý ký giữa Luật sư và bị can hoặc người đại diện hợp pháp của bị can, chứng chỉ hành nghề Luật sư do Bộ Tư pháp cấp. Việc cấp giấy chứng nhận người bào chữa phần lớn không bảo đảm trong thời hạn 3 ngày. Việc người bào chữa gặp mặt người bị tạm giữ, bị can, bị cáo gặp nhiều khó khăn trên thực tế. Thời gian người bào chữa được tiếp xúc với người bị tạm giữ chỉ trong vòng 01 giờ đồng hồ đã hạn chế việc thực hiện quyền bào chữa trong khi Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật Luật sư không có quy định về hạn chế này. Nhiều trường hợp, cơ quan tố tụng không thông báo cho người bào chữa biết về các quyết định tố tụng, thậm chí có trường hợp quyết định tố tụng còn đóng dấu “mật”, ảnh hưởng đến quá trình tham gia của người bào chữa. Pháp luật đã có một số quy định ràng buộc trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong việc đáp ứng các yêu cầu, đề nghị của người bào chữa, song lại thiếu thời hạn ràng buộc trách nhiệm của các chủ thể tiến hành tố tụng trong việc đáp ứng quyền của người bào chữa được luật định.

Sáu là, các quy định về trách nhiệm chứng minh, thu thập đánh giá chứng cứ, áp dụng biện pháp ngăn chặn chưa đầy đủ rõ ràng. Theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng có quyền tiến hành hoạt động thu thập chứng cứ, còn người bào chữa không bị ràng buộc bởi điều khoản tương tự. Điều này có nghĩa là luật cho phép người bào chữa có quyền thu thập chứng cứ, nhưng lại không quy định cụ thể về trình tự, thủ tục để thu thập chứng cứ. Việc không quy định rõ ràng trình tự, thủ tục về hoạt động thu thập chứng cứ của người bào chữa dẫn đến không có căn cứ để đánh giá tính hợp pháp của chứng cứ được thu thập bởi người bào chữa. Việc Bộ luật Tố tụng hình sự không quy định rõ ràng căn cứ pháp lý để xác định tính hợp pháp của các chứng cứ được thu thập bởi người bào chữa dễ dẫn đến sự tùy tiện trong việc thu thập chứng cứ của người bào chữa và sự tùy tiện trong việc xác định tính hợp pháp của các chứng cứ đó của hội đồng xét xử. Mặt khác, chính vì không có căn cứ pháp lý cho trình tự, thủ tục thu thập nên nhiều trường hợp người bào chữa không thể thu thập được chứng cứ mình mong muốn do người được yêu cầu cho lời khai hoặc người được yêu cầu cung cấp tài liệu không hợp tác. Từ đó, làm suy yếu quyền thu thập chứng cứ của người bào chữa trên thực tế.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nghị quyết 49/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến 2020;

2. Hiến pháp năm 2013;

3. Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003;

4. Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2021).

PHẠM MINH ĐÔ

Tòa án Quân sự Quân khu 7

Một số quy định cần hoàn thiện nhằm thúc đẩy thị trường quyền sử dụng đất

Nguyễn Mỹ Linh