Nghề Luật sư tại Việt Nam: Cơ hội và thách thức trong điều kiện hội nhập kinh tế số hóa

01/10/2021 04:25 | 2 năm trước

(LSVN) - Trong quá trình phát triển, Việt Nam được đánh giá là một trong những quốc gia có tốc độ hội nhập, phát triển kinh tế số dẫn đầu trong khu vực Đông Nam Á. Sự phát triển nhanh chóng đó mang đến rất nhiều cơ hội và cả những thách thức không nhỏ đối với mọi ngành nghề, trong đó bao gồm cả nghề Luật sư. Đòi hỏi đặt ra là cần phải biết cách nắm bắt các cơ hội để phát triển, nhìn nhận đúng các thách thức, những hạn chế của nghề Luật sư để khắc phục, thích ứng kịp thời với sự phát triển của nền kinh tế số.

Ảnh minh họa.

Kinh tế số là nền kinh tế sử dụng kiến thức, thông tin được số hóa để hướng dẫn, nâng cao phân bổ nguồn lực, năng suất, mang lại tăng trưởng kinh tế chất lượng cao. Phát triển kinh tế số là sự hội tụ của nhiều công nghệ mới, như: dữ liệu lớn, điện toán đám mây, Internet vạn vật - IOT, blockchain - Chuỗi khối, Trí tuệ nhân tạo AI, mạng không dây 5G. Công nghệ mới cho phép con người xử lý khối lượng công việc lớn, đưa ra quyết định thông minh hơn[1]. Hòa nhập với xu thế phát triển của thế giới, Việt Nam được nhìn nhận là quốc gia có tốc độ phát triển kinh tế số nằm trong tốp đầu khu vực Đông Nam Á. Đến thời điểm hiện tại, xu hướng số hóa tại Việt Nam đã xuất hiện, bao phủ rộng khắp trên nhiều lĩnh vực, ngành kinh tế. Dự đoán trong tương lai, với rất nhiều lợi thế về: đông dân số - theo thống kê thì trong năm 2020 có đến 68 triệu người dùng Internet trên tổng số 97 triệu dân[2], nền chính trị ổn định, hạ tầng viễn thông, công nghệ thông tin phát triển… thì nền kinh tế số tại Việt Nam sẽ ngày càng phát triển mạnh mẽ, vượt bậc.

Vai trò quan trọng của nghề Luật sư trong nền kinh tế số

Lịch sử phát triển xã hội loài người đã minh chứng rằng bất kỳ sự phát triển kinh tế của quốc gia nào cũng gắn liền với sự phát triển của pháp luật. Kinh tế số hóa càng phát triển thì vai trò, tầm ảnh hưởng của pháp luật sẽ càng sâu rộng và vị thế của Luật sư sẽ càng được coi trọng. Vai trò của Luật sư không chỉ dừng lại ở phạm vi tham gia tố tụng mà còn là tư vấn pháp luật, đại diện ngoài tố tụng và thực hiện các dịch vụ pháp lý khác. Điều này cũng có thể nói rằng trong hoạt động của cá nhân, các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp nếu muốn có sự đảm bảo về pháp lý đều cần đến sự tham gia, tư vấn của Luật sư, đặc biệt là những hoạt động pháp lý chỉ có Luật sư mới có quyền thực hiện. Xã hội càng phát triển, khi Việt Nam hội nhập quốc tế càng sâu rộng thì mỗi cá nhân, tổ chức, đặc biệt là các doanh nghiệp càng ý thức được vị trí, vai trò của Luật sư trong đời sống xã hội cũng như trong sự phát triển kinh tế, làm cho vị trí và vai trò của Luật sư sẽ ngày càng được nhìn nhận đúng với giá trị vốn có của nó.

Kinh tế số hóa tác động đến hầu hết các hoạt động kinh tế, xã hội ở Việt Nam, tác động nhiều đến công cuộc cải cách tư pháp vốn đã được thực hiện nhiều năm nay theo tinh thần của Nghị quyết 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về “Một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới” và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”. Nhiệm vụ của cải cách tư pháp cũng đã có những bước chuyển biến phù hợp, điển hình là việc “số hóa hồ sơ” đã tạo ra rất nhiều sự thuận lợi, hiệu quả trong hoạt động của các cơ quan tư pháp cũng như hoạt động nghề Luật sư.

Hội nhập kinh tế số hóa tạo ra nhiều cơ hội cho nghề Luật sư ở Việt Nam

Thứ nhất, kinh tế số phát triển đòi hỏi nhu cầu nhân sự rất lớn của nghề Luật sư

Hiện nay ở các nước phát triển, tỷ lệ Luật sư trên tổng dân số rất cao, chẳng hạn như ở Mỹ cứ 250 người dân thì có 1 Luật sư (1/250), ở Pháp và Singapore là 1/1.000, ở Thái Lan là 1/1.526, ở Nhật là 1/1.546[3]. Ở nước ta, trong những năm qua mặc dù Nhà nước đã quan tâm đến việc phát triển đội ngũ Luật sư, tuy nhiên hiện nay tỷ lệ Luật sư trên tổng số dân còn quá thấp: theo thống kê thì tính đến cuối năm 2020 Việt Nam có 15.107[4] Luật sư trên tổng dân số là 97.582.700 người[5], tức là chỉ khoảng 1 Luật sư/6.000 dân, trong khi nhu cầu về dịch vụ pháp lý rất lớn, dẫn đến nhu cầu nhân sự đối với nghề Luật sư là rất cao. Đặc biệt là Việt Nam đang trong thời kỳ phát triển kinh tế số hóa mạnh mẽ, các doanh nghiệp ngày càng có ý thức và nhu cầu được cung cấp dịch vụ pháp lý để đảm bảo việc kinh doanh đúng quy định pháp luật, làm nền tảng cho sự phát triển bền vững về sau. Luật sư với sự am hiểu pháp lý của mình sẽ giữ một vai trò quan trọng trong việc đồng hành cùng với các doanh nghiệp trên nhiều khía cạnh: tư vấn quản trị nội bộ doanh nghiệp, bảo vệ tài sản doanh nghiệp, hỗ trợ soạn thảo hợp đồng với các đối tác, tham gia giải quyết tranh chấp giữa các bên trong quá trình kinh doanh…

Thứ hai, việc áp dụng chuyển đổi số tạo thuận lợi cho hoạt động của Luật sư

Số hóa dữ liệu: Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 là sự lên ngôi của trạng thái số hóa và thông minh hóa các ứng dụng công nghệ thông tin[6]. Việc phát triển mạnh của mạng lưới Internet, số hóa dữ liệu có thể giúp Luật sư làm việc nhanh hơn. Trước hàng ngàn văn bản luật và án lệ, nhờ công cụ tìm kiếm, số hóa sẽ giúp Luật sư tiết kiệm rất nhiều thời gian trong việc tìm kiếm, sàng lọc tài liệu và dành thời gian để phân tích sâu tài liệu liên quan đến vụ việc. Việc công bố bản án, quyết định trên Cổng thông tin điện tử của Tòa án theo Nghị quyết 03/2017/NQ-HĐTP ngày 16/03/2017 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao “về việc công bố bản án, quyết định trên Cổng thông tin điện tử của Tòa án” là một trong những quy định thể hiện việc đẩy mạnh ứng dụng, phát triển công nghệ thông tin trong hoạt động tư pháp và có tác động lớn tới giới Luật sư. Việc này không chỉ giúp cho Luật sư mà còn cả người dân, cơ quan, tổ chức cũng có thể tìm kiếm, xem trực tiếp nội dung các bản án, quyết định đã công bố thuộc các lĩnh vực liên quan, các án lệ được áp dụng. Phương thức này đã tăng cường sự tiếp cận và giám sát đối với hoạt động xét xử, giải quyết của tòa của các cơ quan, tổ chức, cá nhân; Tăng cường tính công khai, minh bạch trong hoạt động của Tòa án, góp phần nâng cao chất lượng bản án, quyết định của Tòa án...là những yếu tố cũng góp phần tạo thuận lợi cho hoạt động của Luật sư.

Minh bạch hóa hoạt động doanh nghiệp: Trong quy trình thực hiện hệ thống quản lý doanh nghiệp, vốn trước kia rất chồng chéo bằng những quy định thiếu minh bạch thì kinh tế số hóa đã có tác động tích cực trong việc thực hiện công khai minh bạch hóa các thiết chế quản lý, đồng bộ hóa các quy định pháp luật trong nước so với các thông lệ, quy tắc thương mại thế giới. Đây là một thuận lợi lớn đối với giới Luật sư bởi với những tiến bộ về minh bạch hóa thiết chế quản lý doanh nghiệp sẽ giúp Luật sư có điều kiện thuận tiện trong việc tra cứu quy định, từ đó dự đoán được các rủi ro pháp lý và có hướng tư vấn hiệu quả cho doanh nghiệp.

Sự phát triển của hoạt động trực tuyến: Những bước tiến mới được tạo ra trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 làm thay đổi cách giao tiếp và xử lý nghiệp vụ từ trực tiếp sang hình thức tương tác, giao tiếp điện tử. Nền kinh tế số xác định vai trò của công nghệ là yếu tố quan trọng, then chốt trong định hướng phát triển. Các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân có rất nhiều phương thức khác thuận lợi để liên hệ với Luật sư thay vì phải đến gặp trực tiếp: trao đổi qua email, mạng xã hội, trang web của tổ chức hành nghề Luật sư... Vì vậy, phạm vi giao tiếp khách hàng của Luật sư hầu như không còn bị giới hạn bởi khoảng cách về địa lý, không gian. Đặc biệt, trong thời điểm hiện tại, do tình hình dịch bệnh Covid -19 tại Việt Nam đang diễn biến hết sức phức tạp, các cơ quan tư pháp cũng đã và đang nghiên cứu áp dụng mô hình xét xử trực tuyến, vừa đảm bảo yêu cầu chống dịch, vừa đảm bảo các vụ án được xét xử kịp thời, đúng quy định pháp luật, làm cho hoạt động của Luật sư cũng được duy trì, ổn định theo. Trên thế giới cũng đã xuất hiện nhiều phương thức giải quyết tranh chấp trực tuyến được thực hiện thông qua nền tảng số, internet… Như vậy, hoạt động hành nghề Luật sư sẽ không còn bị cản trở bởi khái niệm biên giới hay lãnh thổ.

Hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa: Thế giới phẳng hơn đồng nghĩa với việc hoạt động của Luật sư không chỉ dừng lại ở phạm vi trong nước mà còn mở rộng cơ hội hành nghề đối với các đối tác nước ngoài, làm việc xuyên biên giới, với đa dạng về đối tác, loại hình và nội dung dịch vụ cung ứng. Việc hành nghề, mở rộng hợp tác pháp lý ra phạm vi quốc tế sẽ giúp cho các Luật sư Việt Nam có thêm nhiều cơ hội để cọ sát, học hỏi nâng cao chuyên môn nghiệp vụ; được tiếp cận, chuyển giao những kỹ năng hành nghề, phương pháp lý luận chuẩn mực trong hoạt động hành nghề Luật sư tại các nước phát triển trên thế giới.

Như vậy, trong điều kiện hội nhập kinh tế số hóa, sự phát triển của công nghệ và hội nhập sẽ tạo ra nhiều cơ hội hơn cho nghề Luật sư. Cụ thể, lượng công việc ngành luật tăng, đặc biệt là các lĩnh vực liên quan đến kinh tế và thương mại quốc tế. Các Luật sư cần tận dụng những cơ hội này, áp dụng đòn bẩy của công nghệ để phát huy vai trò của Luật sư trong xã hội.

Thách thức đối với nghề Luật sư trong điều kiện hội nhập kinh tế số hóa

Thứ nhất, sự hạn chế về năng lực và kinh nghiệm của Luật sư Việt Nam hiện nay

Trong điều kiện hội nhập kinh tế số hóa trên phạm vi quốc tế, các Luật sư của thời gian tới sẽ là “Luật sư toàn cầu”. Luật sư phải có khả năng tư vấn, làm việc cho các khách hàng hoặc đối tác của khách hàng trên phạm vi toàn cầu. Để làm được điều đó, đòi hỏi Luật sư phải có sự am hiểu không chỉ là pháp luật Việt Nam mà còn là pháp luật nước ngoài, phải có năng lực sử dụng ngoại ngữ và năng lực hội nhập quốc tế cao. Sự phát triển nhanh chóng của khoa học công nghệ, kinh tế số đi cùng với đó là sự hình thành các phương thức kinh doanh mới xuất hiện, chưa có tiền lệ, kiến thức pháp lý cũng liên tục được đổi mới đặt ra yêu cầu cho các Luật sư phải không ngừng cập nhật thông tin để có thể tư vấn cho khách hàng cũng như xử lý hiệu quả các tình huống liên quan trong cuộc sống. Thực tế tại Việt Nam, số lượng Luật sư có chuyên môn sâu, có trình độ ngoại ngữ, có kinh nghiệm trong việc tư vấn pháp lý, giải quyết các vụ việc tranh chấp mang tính quốc tế là rất ít, không đủ để đáp ứng nhu cầu của các doanh nghiệp. Do vậy, dẫn đến tình trạng là phần lớn các vụ tranh chấp thương mại mang tính quốc tế thì các doanh nghiệp Việt Nam vẫn phải lựa chọn thuê các tổ chức Luật sư nước ngoài để giải quyết với một mức phí không hề nhỏ.

Luật sư – Thạc sĩ Lê Thị Phương, Phó Giám đốc Công ty Luật TNHH Hồng Long.

Thứ hai, áp lực cạnh tranh và đào thải

Mặc dù nhu cầu về nhân sự nghề Luật sư là cao nhưng vẫn xảy ra nghịch lý có những Luật sư bị đào thải khỏi thị trường việc làm do điều kiện phát triển kinh tế tại Việt Nam chưa được đồng đều về mặt địa lý dẫn đến số lượng Luật sư chủ yếu tập trung ở hai địa phương có nền kinh tế phát triển là thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Sự thiếu cân đối này đã tạo ra một áp lực cạnh tranh rất lớn về hoạt động nghề nghiệp của các Luật sư tại hai địa phương này. Đó là chưa kể đến việc bước vào quá trình hội nhập với thế giới, áp lực cạnh tranh không chỉ dừng lại ở các Luật sư trong nước với nhau mà còn là sự cạnh tranh với các Luật sư quốc tế dày dạn chuyên môn, kinh nghiệm đến từ các nước có nền kinh tế phát triển từ rất lâu đời.

Thứ ba, sự tác động của trí tuệ nhân tạo AI

Mặc dù viễn cảnh trí tuệ nhân tạo AI có thể thay thế hoàn toàn Luật sư có lẽ còn khá xa vời, nhưng sự phát triển của trí tuệ nhân tạo AI trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ pháp lý cùng với những ưu điểm vượt trội (dữ liệu lớn, tốc độ tra cứu quy định pháp luật chuẩn xác, nhanh chóng, khả năng dự liệu rủi ro pháp lý toàn diện, chi phí pháp lý thấp và được công khai chi tiết…)  đang dần tạo nên một áp lực cạnh tranh ngày càng lớn đối với những người hành nghề Luật sư truyền thống[7].

Thứ tư, nguy cơ rủi ro trong việc bảo mật thông tin

Kinh tế số tức là số hóa kiến thức, thông tin. Song song với ưu điểm thì cũng tồn tại rủi ro là việc sử dụng công nghệ thông tin trong quản lý hồ sơ, sổ sách có thể dẫn tới thông tin cá nhân, bí mật kinh doanh của doanh nghiệp bị rò rỉ bao gồm vấn đề bảo mật thông tin, thư tín của cá nhân… Và nếu các thông tin trên không được bảo vệ một cách an toàn sẽ dẫn đến những hệ lụy khôn lường. Theo số liệu từ Kaspersky Security Network, Việt Nam thường xuyên nằm trong top 3 quốc gia bị tấn công mạng nhiều nhất năm 2018[8]. Điều này cho thấy, có một lỗ hổng lớn của Việt Nam trong lĩnh vực bảo đảm an ninh mạng, an toàn thông tin. Đặc thù của nghề Luật sư là phải hiểu biết tường tận các thông tin của khách hàng, có trách nhiệm bảo mật thông tin, hồ sơ mà khách hàng cung cấp. Do vậy, thực tế là đang có một áp lực không hề nhỏ đối với Luật sư trong việc bảo mật thông tin của khách hàng trong tình trạng an ninh mạng tại Việt Nam đang còn rất nhiều vấn đề đáng lo ngại như hiện nay.

Thứ năm, Luật sư cần có sự chuẩn bị kỹ lưỡng về mọi mặt để hội nhập kinh tế số hóa

Kinh tế số sẽ mở ra cơ hội lớn cho các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Kinh tế số được xác định là động lực phát triển quan trọng để đưa Việt Nam tiến nhanh, tiến mạnh trên trường quốc tế. Đi cùng với đó, nghề Luật sư cũng phải có những sự thay đổi nhất định để thích ứng, tập trung chủ yếu vào các vấn đề sau:

Chủ động hội nhập: Đội ngũ Luật sư cần tích cực rèn luyện ý chí tự học hỏi, cọ sát, trao đổi chuyên môn, nghiệp vụ với các Luật sư quốc tế; tăng cường nghiên cứu, nắm bắt xu thế mới công nghệ kỹ thuật; tìm hiểu, đáp ứng các điều kiện để được hành nghề luật ở phạm vi toàn cầu. Nhạy bén với thay đổi của thời cuộc, cập nhật kịp thời  thay đổi để bắt kịp chuẩn mực của việc hành nghề Luật sư với đẳng cấp cao hơn.

Nâng cao năng lực chuyên môn: Liên đoàn Luật sư Việt Nam, các Đoàn Luật sư địa phương cần quan tâm hơn nữa trong việc bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho Luật sư. Bản thân các Luật sư cũng cần tự ý thức học tập, nâng cao chuyên môn, kỹ năng hành nghề, nâng cao khả năng sử dụng ngoại ngữ để đáp ứng nhu cầu được cung cấp dịch vụ pháp lý của cá nhân, tổ chức trên phạm vi toàn cầu. Ngoài ra, Luật sư còn phải cập nhật, bổ sung các kiến thức về công nghệ thông tin, nâng cao kỹ năng sử dụng các phương tiện công nghệ hiện đại để phát huy điểm mạnh, hạn chế rủi ro khi hành nghề.

Xây dựng hình ảnh chuyên nghiệp, tin cậy: Đội ngũ Luật sư và các tổ chức hành nghề Luật sư cần có sự hoạch định chiến lược ngắn hạn cũng như dài hạn, nắm bắt đặc trưng của thị trường trong nền kinh tế số để có những thay đổi phù hợp về đào tạo, nâng cao năng lực chuyên môn, nghiệp vụ, phát triển thị trường… từ đó phát triển, xây dựng hình ảnh, thương hiệu chuyên nghiệp, từng bước nâng cao niềm tin của các cá nhân, tổ chức vào đội ngũ Luật sư của Việt Nam.

Sự hỗ trợ của Nhà nước: Bên cạnh việc hoạch định pháp luật, tạo hành lang pháp lý, định hướng phát triển nghề Luật sư thì sự hỗ trợ của Nhà nước đóng vai trò rất quan trọng trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh của Luật sư trong nước trên trường quốc tế. Sự hỗ trợ này có thể thực hiện dưới nhiều hình thức như tuyên truyền, quảng bá hình ảnh của Luật sư trong nước; khuyến khích các cá nhân, tổ chức sử dụng dịch vụ Luật sư trong nước; hỗ trợ, cấp kinh phí đào tạo Luật sư phụ vụ cho việc hội nhập nền kinh tế số…

Nhìn chung, để nghề Luật sư được thích ứng, phát triển hiệu quả trong bối cảnh nền kinh tế số thì cần phải có sự phối hợp thực hiện đồng bộ giữa Nhà nước, tổ chức xã hội - nghề nghiệp của Luật sư và của chính bản thân các Luật sư.

[1] TS. Tô Trọng Hùng, “Nhận thức về kinh tế số và một số giải pháp phát triển nền kinh tế số ở Việt Nam”, xem tại: https://tapchicongthuong.vn/bai-viet/nhan-thuc-ve-kinh-te-so-va-mot-so-giai-phap-phat-trien-nen-kinh-te-so-o-viet-nam-81304.htm (truy cập ngày 23 tháng 09 năm 2021).

[2] Báo cáo Digital Marketing Việt Nam năm 2020.

[3] Phạm Thái, “Cần những giải pháp đồng bộ để phát triển nghề Luật sư” xem tại: https://hdnd.quangbinh.gov.vn/3cms/can-nhung-giai-phap-dong-bo-de-phat-trien-nghe-luat-su.htm , (truy cập ngày 23 tháng 09 năm 2021).

[4] “Hội nghị Tổng kết tổ chức hoạt động năm 2020 và phương hướng hoạt động Năm 2021”, xem tại: https://www.liendoanluatsu.org.vn/post/h%E1%BB%99i-ngh%E1%BB%8B-t%E1%BB%95ng-k%E1%BA%BFt-t%E1%BB%95-ch%E1%BB%A9c-ho%E1%BA%A1t-%C4%91%E1%BB%99ng-n%C4%83m-2020-v%C3%A0-ph%C6%B0%C6%A1ng-h%C6%B0%E1%BB%9Bng-ho%E1%BA%A1t-%C4%91%E1%BB%99ng-n%C4%83m-2021 , (truy cập ngày 24 tháng 09 năm 2021).

[5] Dữ liệu trích lục tại trang Thông tin Điện tử Tổng cục Thống kê, xem tại: https://www.gso.gov.vn/px-web-2/?pxid=V0201&theme=D%C3%A2n%20s%E1%BB%91%20v%C3%A0%20lao%20%C4%91%E1%BB%99ng, (truy cập ngày 25 tháng 09 năm 2021)

[6] “Nhìn lại định nghĩa công nghiệp 4.0 và cách Việt Nam đón nhận xu hướng này”, xem tại: https://ictnews.vietnamnet.vn/cuoc-song-so/nhin-lai-dinh-nghia-cong-nghiep-4-0-va-cach-viet-nam-don-nhan-xu-huong-nay-364770.html, (truy cập ngày 23 tháng 09 năm 2021).

[7] TS. Nguyễn Văn Quân, “Một số tác động của trí tuệ nhân tạo tới nghề luật”, xem tại: http://lapphap.vn/Pages/tintuc/tinchitiet.aspx?tintucid=210361, (truy cập ngày 23 tháng 09 năm 2021)

[8] “Việt Nam nằm trong top 3 quốc gia bị tấn công mạng nhiều nhất”, xem tại: https://thanhnien.vn/cong-nghe/viet-nam-nam-trong-top-3-quoc-gia-bi-tan-cong-mang-nhieu-nhat-1058542.html, (truy cập ngày 25 tháng 09 năm 2021).

Luật sư – Thạc sĩ LÊ THỊ PHƯƠNG

Phó Giám đốc Công ty Luật TNHH Hồng Long

Đoàn Luật sư TP. Hồ Chí Minh

Vai trò của Luật sư trong hoạt động tư pháp theo tinh thần Hiến pháp 2013

Hoàn thiện cơ chế bảo đảm để Luật sư thực hiện tốt việc tranh tụng tại phiên tòa

(LSVN) - Cải cách tư pháp được xác định là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong công cuộc đổi mới toàn diện đất nước. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 nhấn mạnh: “Các cơ quan tư pháp phải thật sự là chỗ dựa của nhân dân trong việc bảo vệ công lý, quyền con người; đồng thời, là công cụ hữu hiệu bảo vệ pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa”. 

Luật sư Vũ Thị Nga tại phiên tòa.

Năm 2013, Quốc hội đã thông qua Hiến pháp mới, theo đó gần 70 luật, pháp lệnh liên quan đến tổ chức, hoạt động tư pháp và quyền con người, quyền công dân trong lĩnh vực tư pháp được ban hành, đi vào thực tế, trong đó có sự ra đời của Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2015. Chiến lược cải cách tư pháp đã được cụ thể hóa bằng việc bổ sung nhiều quyền tố tụng cho bị can, bị cáo, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại, đương sự khác; bảo đảm chất lượng tranh tụng tại phiên tòa. Đây là cơ sở, tiền đề để việc phòng chống oan sai, bảo vệ quyền con người, quyền công dân trong tố tụng hình sự được bảo đảm thực hiện trên thực tế.

Thực tiễn thực hiện quyền tố tụng của bị can, bị cáo

So với BLTTHS năm 2003, BLTTHS năm 2015 đã bổ sung nhiều quyền tố tụng khác cho bị can, bị cáo.

Bị can đã được bổ sung một số quyền mới, như: được biết lý do mình bị khởi tố; trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội; trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá; đọc, ghi chép bản sao tài liệu hoặc tài liệu được số hóa liên quan đến việc buộc tội, gỡ tội hoặc bản sao tài liệu khác liên quan đến việc bào chữa kể từ khi kết thúc điều tra khi có yêu cầu. Bị cáo cũng được bổ sung một số quyền mới: trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá; trình bày lời khai, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội; đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi hoặc tự mình hỏi người tham gia phiên tòa nếu được chủ tọa đồng ý; tranh luận tại phiên tòa; xem biên bản phiên tòa, yêu cầu ghi những sửa đổi, bổ sung vào biên bản phiên tòa. Có thể thấy việc bổ sung các quyền tố tụng của bị can, bị cáo đã giúp bị can, bị cáo có khả năng tự bảo vệ chính mình, từ đó góp phần bảo vệ quyền con người, quyền công dân của chính họ - những người đang ở thế yếu.

Trên thực tế, về cơ bản bị can, bị cáo được thực hiện các quyền của mình theo quy định của BLTTHS. Song, vẫn tồn tại những hạn chế, bất cập nhất định. Vẫn còn có trường hợp bị can, bị cáo không được thông báo, giải thích hoặc thông báo, giải thích không đầy đủ về quyền, nghĩa vụ của mình; không được nhận đầy đủ các quyết định tố tụng liên quan đến mình; bị ép cung, dụ cung, dùng nhục hình; khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng nhưng không được giải quyết; không được xem biên bản phiên tòa,…

Những bất cập, hạn chế này xuất phát từ cả nguyên nhân chủ quan và khách quan.

Chủ quan là bị can, bị cáo thường là những người hiểu biết pháp luật còn hạn chế nên họ có thái độ “buông xuôi”, “bất cần”, “chấp nhận” không quan tâm đến các quyền mà mình được pháp luật bảo vệ, do đó không thực hiện hoặc không biết để thực hiện. Nguyên nhân khách quan của bất cập này có thể kể đến như: cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng đã có hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, tình trạng “lạm quyền”, “bao che”, “bưng bít”, “cố ý làm sai lệch hồ sơ”, “sửa chữa hồ sơ”... vẫn xảy ra; ngoài ra, công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật của Nhà nước còn hạn chế, chưa hiệu quả, dẫn đến hiểu biết pháp luật của đại đa số bộ phân dân cư còn hạn chế, đặc biệt là ở vùng dân tộc miền núi, nông thôn…

Hoàn thiện cơ chế bảo đảm để Luật sư thực hiện tốt việc tranh tụng tại phiên tòa

Để bảo đảm quyền con người, quyền công dân của bị can, bị cáo, phòng chống oan sai cho người vô tội thì không thể không nói đến vai trò của Luật sư bào chữa. Luật sư tham gia tố tụng là cả một quá trình dài, song kết quả của cả quá trình đó tựu trung lại là ở tại phiên tòa. Do đó, việc Luật sư tranh tụng tại phiên tòa có vai trong quan trọng trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho bị can, bị cáo; đây là “thời điểm” để Luật sư đưa ra quan điểm gỡ tội cho bị cáo trước những quan điểm buộc tội của viện kiểm sát. Nghị quyết 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 đã chỉ rõ: “Bảo đảm chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, lấy kết quả tranh tụng tại tòa làm căn cứ quan trọng để phán quyết bản án, coi đây là khâu đột phá để nâng cao chất lượng hoạt động tư pháp”. Theo đó, BLTTHS năm 2015 đã có những điểm mới, góp phần nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa theo tinh thần cải cách tư pháp. Có thể kể đến một số điểm mới nổi bật như: đã quy định nguyên tắc “tranh tụng trong xét xử được bảo đảm” (Điều 26), nguyên tắc “suy đoán vô tội” (Điều 13), nguyên tắc “bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự” (Điều 16).

So với BLTTHS năm 2003, BLTTHS năm 2015 đã bổ sung nhiều quy định mới, tạo điều kiện cho người bào chữa thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình trong quá trình bảo vệ cho thân chủ trước sự buộc tội của các cơ quan tiến hành tố tụng. Theo đó, người bào chữa có quyền được gặp, hỏi người bị bắt, người bị tạm giam giữ, bị can, bị cáo. Thời điểm người bào chữa tham gia tố tụng sớm nhất là từ khi người bị bắt có mặt tại trụ sở cơ quan điều tra. Sau mỗi lần lấy lời khai, hỏi cung của người có thẩm quyền kết thúc thì người bào chữa có thể hỏi người bị bắt, bị giữ, bị can… Các quy định này đã cho thấy một bước tiến lớn góp phần nâng cao chất lượng tranh tụng của Luật sư.

Song, trên thực tế, việc Luật sư thực hiện việc tranh tụng tại phiên tòa vẫn gặp những hạn chế, rào cản nhất định mà nguyên nhân chính xuất phát từ chính các cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, có thể kể đến một vài vi phạm như: vẫn còn đâu đó có người bất chấp pháp luật xét hỏi không khách quan; cố bảo vệ cáo trạng, sửa chữa hồ sơ, bút lục mặc dù các tài liệu, chứng cứ mâu thuẫn nhưng vẫn vội vàng kết luận; hay lạm quyền của chủ tọa phiên tòa điều hành, hạn chế Luật sư xét hỏi. Có tình trạng nhiều tài liệu của vụ án bị bỏ ra ngoài sau khi đã thu thập, đã có biên bản giao nhận nhưng đến giai đoạn xét xử không có trong hồ sơ; không thu thập đầy đủ chứng cứ là lời khai những nhân chứng khách quan… Ngoài ra, tình trạng biên bản phiên tòa, bản án không ghi nhận đầy đủ quan điểm tranh tụng của Luật sư trong khi Luật sư đã đưa ra nhiều chứng cứ, nhân chứng, vật chứng chứng minh, phản biện lại kết luận điều tra, cáo trạng, để rồi hội đồng xét xử tuyên một bản án trái pháp luật, không căn cứ vào kết luận tranh tụng tại phiên tòa…

Mặt khác, trong tố tụng nói chung và tố tụng hình sự nói riêng, hội đồng xét xử chỉ đóng vai trò là trọng tài, ra phán quyết căn cứ vào kết quả kiểm tra, đánh giá chứng cứ và đặc biệt dựa trên kết quả tranh tụng tại phiên tòa. Tuy nhiên, theo quy định của BLTTHS hiện nay, thứ tự xét hỏi để làm rõ các vấn đề cần phải chứng minh trong vụ án lại được “ưu tiên” cho thẩm phán chủ tọa phiên tòa, thành viên khác của hội đồng xét xử, sau đó mới đến kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Chính quy định này cũng là “cơ hội” để thẩm phán chủ tọa phiên tòa “vin” vào để hạn chế việc xét hỏi của Luật sư. Còn rất nhiều các bất cập khác nữa trong quá trình tranh tụng tại tòa đã xảy ra.

Để có kết quả tranh tụng bảo đảm thì việc xét hỏi công khai các vấn đề liên quan đến chứng cứ, lời khai, làm rõ mâu thuẫn, thẩm tra tài liệu có trong hồ sơ vụ án, tranh luận tại phiên tòa là điều đặc biệt cần thiết. Tuy nhiên, trên thực tế vẫn còn tồn tại những bất cập, hạn chế, ảnh hưởng đến chất lượng Luật sư tranh tụng tại phiên tòa. Do đó, việc sửa đổi, bổ sung quy định của BLTTHS vẫn là việc phải tính trong tương lai. Tác giả đề xuất một số giải pháp dưới đây nhằm hoàn thiện, bảm đảm cơ chế để Luật sư thực hiện tốt việc tranh tụng tại phiên tòa:

- Về thứ tự xét hỏi, nên sửa đổi theo hướng “Khi xét hỏi từng người, thứ tự xét hỏi được thực hiện như sau: kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, sau cùng là phần xét hỏi của các thành viên hội đồng xét xử, thẩm phán chủ tọa phiên tòa”.

- Bổ sung chế tài đối với bản án tuyên không dựa trên kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trách nhiệm của hội đồng xét xử khi biên bản phiên tòa không ghi nhận đầy đủ các nội dung tranh tụng...

- Ngoài ra, cần tăng cường và duy trì, phát huy hơn nữa vai trò của tòa án trong bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, theo đó cán bộ, nhân viên, nhất là thẩm phán cần tích cực học tập nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ để nhanh chóng khắc phục những sai sót ảnh hưởng đến quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức… Nhất là hiện nay, chúng ta đang trong quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền thì yêu cầu đối với quá trình đấu tranh phòng, chống tội phạm là hết sức cần thiết và cần chú trọng đến mục tiêu đề cao công lý, không làm oan người vô tội, mà nhiệm vụ trọng tâm là tranh tụng tại tòa án.

Thạc sĩ - Luật sư VŨ THỊ NGA

Văn phòng Luật sư Công Lý Việt

Vai trò của Luật sư trong hoạt động tư pháp theo tinh thần Hiến pháp 2013

Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và những vấn đề đặt ra đối với trách nhiệm hình sự của pháp luật thương mại

(LSVN) - Thực tiễn ở nước ta trong thời gian gần đây đã xuất hiện và nổi lên một số phương thức, thủ đoạn phạm tội mới lợi dụng các thành tựu của cách mạng công nghiệp lần thứ tư mang tính chất có tổ chức, xuyên quốc gia. Với tư cách là đạo luật thực hiện chức năng bảo vệ các lợi ích của con người, của xã hội và Nhà nước tránh khỏi sự xâm hại có tính chất tội phạm thì pháp luật hình sự cần phải chặt chẽ, đầy đủ và là công cụ hữu hiệu cho việc đấu tranh và xử lý các hành vi phạm tội mới, đặc biệt là các tội phạm được phát sinh trong cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư với đặc trưng khác biệt tội phạm truyền thống bằng việc sử dụng khác nhiều so với tội phạm thông thường.

Ảnh minh họa.

1. Tác động cách mạng công nghiệp lần thứ tư đối với trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại

“Cách mạng công nghiệp lần thứ bốn” là cụm từ gây ấn tượng theo nhiều nghĩa trong thời gian gần đây ở Việt Nam. Theo đó, hầu hết đều cho rằng, cuộc cách mạng lần này sẽ tạo ra những thay đổi vô cùng lớn đối với đời sống con người [4]. Đặc trưng của cuộc cách mạng lần thứ tư với việc ứng dụng ngày càng phổ biến hơn những công nghệ mới như chuỗi khối, trí thông minh nhân tạo, internet vạn vật, robot, điện toán đám mây, dữ liệu lớn (big data) cũng như các công nghệ khác đang liên tục được phát minh ra, mà cốt lõi là quá trình chuyển đổi số, đang làm thay đổi mọi mặt của đời sống kinh tế-xã hội.

Cách mạng công nghiệp lần thứ tư mở ra nhiều vấn đề mà bắt buộc các quốc gia phải thực hiện. Điều này cũng đồi hỏi mỗi quốc gia phải tạo lập một hành lang pháp lý để cho các vấn đề được vận hành theo pháp luật và không bị hạn chế bởi bức tường pháp luật như một rào cào của hội nhập trong các mạng lần thứ tư [5].Có rất nhiều hiện tượng kinh tế - xã hội phát sinh từ cách mạng công nghiệp lần thứ tư minh chứng cho những tác động to lớn của cuộc cách mạng này đến hệ thống pháp luật [6]. Chẳng hạn: Sự lưu hành của các loại tiền ảo (Bitcoin, Litecoin,…) thách thức quan niệm truyền thống về việc chỉ có các quốc gia có chủ quyền mới được phát hành tiền tệ. Sự hình thành của các nền kinh tế chia sẻ (Uber, Grab, AirBnB,…) thách thức quan niệm về kinh doanh vận tải, kinh doanh dịch vụ lưu trú, về cách thức áp dụng pháp luật cạnh tranh. Thêm vào đó, chưa bao giờ vấn đề tội phạm công nghệ cao và việc bảo vệ bí mật đời tư, bảo vệ dữ liệu cá nhân, duy trì an ninh mạng lại trở nên cấp thiết như hiện nay. Phân tích của Bộ Công an về diễn biến tình hình tội phạm và vi phạm pháp luật về công nghệ cao cho thấy, số vụ vi phạm pháp luật và tội phạm sử dụng công nghệ cao năm sau cao hơn năm trước [7]. Tình hình tội phạm sử dụng công nghệ cao đang có chiều hướng ngày càng phức tạp, với diễn biến tăng cả về số vụ và tính chất, mức độ, hậu quả.

Với tư cách là đạo luật thực hiện chức năng bảo vệ các lợi ích của con người, của xã hội và Nhà nước tránh khỏi sự xâm hại có tính chất tội phạm thì pháp luật hình sự cần phải chặt chẽ, đầy đủ và là công cụ hữu hiệu cho việc đấu tranh và xử lý các hành vi phạm tội mới, đặc biệt là các tội phạm được phát sinh trong cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư với đặc trưng khác biệt tội phạm truyền thống bằng việc sử dụng khác nhiều so với tội phạm thông thường. Thực tiễn ở nước ta trong thời gian gần đây đã xuất hiện và nổi lên một số phương thức, thủ đoạn phạm tội mới lợi dụng các thành tựu của cách mạng công nghiệp lần thứ tư mang tính chất có tổ chức, xuyên quốc gia như: (i) Sử dụng tài khoản ảo để thu hút người tham gia dưới hình thức bán hàng đa cấp, sau đó cho sập mạng để chiếm đoạt tài sản; (ii) Trộm cắp thông tin thẻ tín dụng các ngân hàng để lấy cắp tiền mua hàng trực tuyến qua mạng; trộm cắp tài sản qua việc tạo dựng các phần mềm bẻ khóa để xâm nhập tài khoản cá nhân, cơ quan, tổ chức; (iii) Cài đặt các thiết bị đọc, lấy cắp thông tin trên thẻ tín dụng, thẻ ATM vào các máy rút tiền tự động của các ngân hàng, sau đó làm giả thẻ tín dụng để tú tiền hoặc sử dụng để mua hàng qua mạng; (iv) Sử dụng các trạng mạng xã hội để nhắn tin trúng thường, trao giải sau đó giả vờ chuyển tiền, chuyển quà có giá trị dẫn dụ người bị hại chuyển thuế, phí sau đó chiếm đoạt,...

Trước các vấn đề này thì yêu cầu đặt ra về chính sách hình sự cần thiết phải đáp ứng nhu cầu: (i) Xử lý các hành vi phạm tội mới phát sinh với các phương thức và thủ đoạn ngày càng tinh vi, phức tạp đã lợi dụng các thành tựu khoa học công nghê, kỹ thuật của cách mạng công nghiệp lần thứ tư; (ii) Dự báo các loại tội phạm sẽ phát triển trong tương lai và hoạch định chính sách để đấu tranh phòng chống. Điều này thể hiện được mục đích của chính sách hình sự là cái mốc trong tương lai mà cách nhà hoạch định chính sách pháp luật trong lĩnh vực tư pháp hình sự mong muốn đạt được khi soạn thảo và xách định hướng triển khai cụ thể chính sách ấy trong thực tiễn nhằm đấu tranh có hiệu quả với tình hình phạm tội trong giai đoạn phát triển tương ứng của xã hội [8].

Điểm mới nổi bật của Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) so với các BLHS năm 1985, BLHS năm 1999 là lần đầu tiên trong lịch sử lập pháp nước ta ghi nhận về trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại. Điều này hoàn toàn phù hợp với lý luận khoa học luật hình sự, thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm và thông lệ quốc tế. Về mặt lý luận có thể nói rằng, khoa học pháp lý hình sự hiện đại đã giải quyết cơ bản về TNHS đối với pháp nhân thương mại.

Hiện nay, việc thừa nhận tránh nhiệm hình sự (TNHS) pháp nhân thương mại là xu hướng phát triển chung trong luật hình sự nhiều nước trên thế giới [9]. Dưới góc nhìn so sánh luật, hiện nay TNHS pháp nhân thương mại đã chính thức được ghi nhận trong một số văn kiện pháp lý quốc tế, được hợp pháp hóa trong luật hình sự của nhiều nước thuộc hệ thống pháp luật Anh-Mỹ (Common Law) như Anh, Mỹ, Úc,...; và các nước thuộc hệ thống pháp luật Châu Âu lục địa (Civil Law) như Pháp, Thụy Sỹ, Bỉ, Đức,... [3].

Ví dụ, ở Canada, trên cơ sở các án lệ đã xây dựng nên chế định trách nhiệm hình sự pháp nhân trong Luật hình sự của Canada. Đáng chú ý nhất là phán quyết của tòa án trong vụ án giữa Canadian Dredge & Dock Co. v. The Queen đã đánh dấu một sự khởi đầu cho việc xây dựng hệ thống khoa học pháp lý về TNHS pháp nhân trong luật hình sự Canada. Chánh án Bora Laskin, Tòa tối cao Canada nhấn mạnh: “Một công ty phải chịu trách nhiệm về hành vi phạm tội của mình khi tư cách pháp nhân của công ty và hành vi của những người điều hành của công ty tạo nên tính thống nhất. Nếu một người điều hành của công ty thực hiện hành vi phạm tội trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình hoàn toàn mang lại lợi ích cho công ty, và công ty phải chịu TNHS về hành vi phạm tội do người điều hành của công ty gây ra” [14].

Ở nước ta hiện nay, Điều 76 BLHS 2015 đã quy định  pháp nhân thương mại phải chịu TNHS với 33 tội danh, trong đó, 22 tội trật tự quản lý kinh tế và 09 tội về môi trường, tội tài trợ khủng bố và rửa tiền. Thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm cho thấy, một số pháp nhân thương mại vì mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận đã thực hiện hành vi tội phạm điển hình trong lĩnh vực kinh tế, môi trường như trốn thuế, kinh doanh trái phép, đầu cơ, buôn lậu, lừa đảo chiếm đoạt tài sản, gây nhiễm môi trường gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. Ví dụ Công ty cổ phần Đa cấp Liên kết Việt; Công ty cổ phần Đa cấp Thời gian Vàng (Gold Time), Công ty Địa ốc Alibaba lừa đảo chiếm đoạt tài sản [17], Kinh doanh trái phép tiền ảo Alos Coin, iFan [18]. Thủ đoạn phạm tội của các pháp nhân thương mại thể hiện càng tinh vi, xảo quyệt, có tính tổ chức, xuyên quốc gia, gây nguy hiểm đặc biệt nghiêm trọng cho xã hội, đòi hỏi các cơ quan tiến hành tố tụng cần thực hiện các biện pháp hữu hiệu và phù hợp để đấu tranh phòng chống tội phạm trong thời kỳ công nghệ 4.0. Dưới góc độ pháp lý quốc tế, quy định về TNHS pháp nhân thương mại đã có bước phát triển vượt bậc, hàng loạt các điều ước quốc tế và văn kiện pháp lý quốc tế ra đời, xác lập và hoàn thiện chế định TNHS pháp nhân thương mại theo đó hành vi tội phạm của pháp nhân trải rộng từ lĩnh vực môi trường, công nghệ cao đến lĩnh vực khủng bố, tham nhũng, hối lộ, rửa tiền [10].

Để ứng phó với các thách thức đặt ra từ các loại hình tội phạm phát sinh từ cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, đặc biệt các tội phạm phi truyền thống là hành vi nguy hiểm cho xã hội có nguồn gốc phi quân sự gây ra cho sự an toàn, ổn định của mỗi con người, cũng như các quốc gia, dân tộc, cộng đồng quốc tế được thực hiện do cố ý từ bất kỳ chủ thể phi nhà nước nào với đặc trưng mới về địa điểm, phương thức, thủ đoạn phạm tội và yếu tố khách thể tội phạm [15] như rửa tiền, hoạt động chuyển giá, tội phạm công nghệ cao, tội phạm nguồn,... thì quy định pháp luật hình sự về TNHS của pháp nhân thương mại cần phải đáp ứng được các yêu cầu sau:

Thứ nhất, pháp luật hình sự về TNHS của pháp nhân thương mại cần kịp thời tội phạm hóa những hành vi nguy hiểm mới phát sinh trong xã hội, có tính chất nguy hiểm cao, uy hiếp an ninh của con người, và cộng đồng dân cư, dân tộc và nhân loại;

Thứ hai, quan niệm truyền thống về các yếu tố, dấu hiệu cấu thành tội phạm của pháp nhân thương mại trong pháp luật hình sự cần phải được thay đổi để phù hợp với tính chất phi truyền thống (Non-Traditional Security) của những hành vi phạm tội mới;

Thứ ba, pháp luật hình sự về TNHS của pháp nhân thương mại phải có tính cập nhất, tương thích ứng phó so với diễn biến thực tế của tội phạm đang diễn ra và đấu tranh có hiệu quả với tội phạm có tổ chức, xuyên quốc gia.

2. Những vấn đề đặt ra đối với trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại trong cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư

2.1. Quy định về TNHS đối với pháp nhân thương mại trong BLHS

Thứ nhất, điều kiện để truy cứu TNHS của pháp nhân thương mại cần bảo bảo tính logic, hợp lý, cũng như cần bổ sung TNHS của pháp nhân thương mại đối với một số tội danh khác.  Khoản 1, Điều 75 BLHS năm 2015 đã đưa ra các điều kiện để có thể truy cứu TNHS đối với pháp nhân thương mại, tuy nhiên trong các điều kiện này thì điều kiện về hành vi phạm tội được thực hiện nhân danh pháp nhân thương mại (điểm a, khoản 1, Điều 75 BLHS năm 2015) và điều kiện về hành vi phạm tội được thực hiện có sự chỉ đạo, điều hành hoặc chấp thuận của pháp nhân thương mại (điểm c, khoản 1, Điều 75 BLHS năm 2015) chưa độc lập với nhau vì thực tế nếu hành vi phạm tội được thực hiện nhân danh pháp nhân thì không thể có trường hợp không có sự chỉ đạo, điều hành, chấp thuận của pháp nhân thương mại và ngược lại, nếu đã có sự chỉ đạo điều hành hay chấp thuận của pháp nhân thương mại thì chính là đã nhân danh pháp nhân rồi.

Theo tác giả, điều kiện truy cứu TNHS của pháp nhân thương mại bao gồm: (i) Hành vi phạm tội phải do người quản lý, điều hành pháp nhân thực hiện; (ii) Người quản lý, điều hành pháp nhân thực hiện tội phạm nhân danh cho pháp nhân; (iii) Hành vi phạm tội thực hiện vì lợi ích pháp nhân. Quy định như vậy sẽ tạo sự tương thích với thông lệ quốc tế, ví dụ Điều 121-2 BLHS Cộng Hòa Pháp quy định: “Các pháp nhân, trừ Nhà nước, phải chịu TNHS...về những hành vi phạm tội được thực hiện bởi những cơ quan hoặc người đại diện của mình vì lợi ích của pháp nhân đó...”

Thứ hai, mặc dù BLHS năm 2015 đã quy định rõ ràng phạm vi 33 tội phạm mà pháp nhân thương mại phải chịu. Tuy nhiên để chủ động ứng phó và đáp ứng yêu cầu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, qua đó nâng cao hiệu quả đấu tranh, phòng chống và xử lý pháp nhân thương mại phạm tội trong thời kỳ công nghệ 4.0, tác giả cho rằng cần ghi nhận bổ sung các tội danh áp dụng đối với pháp nhân thương mại trong BLHS như: tội “Chống loài người”; tội “Sản xuất, buôn bán, tàng trữ, vận chuyện chất ma túy”; tội “Xâm phạm bí mật đời tư”; tội “Tố cáo vu khống”; tội “Cưỡng bức lao động”,...

Nghiên cứu so sánh cho thấy, pháp luật hình sự Cộng hòa Pháp, Hà Lan, Trung Quốc quy định về TNHS pháp nhân căn cứ không chỉ giới hạn các tội phạm về môi trường, quản lý kinh tế mà đã mở rộng các tội phạm khác trong bối cảnh cuộc cách mạng khoa học và công nghệ lần thứ tư đang diễn ra trên thế giới ở giai đoạn đầu trên nền tảng các thành tựu vượt bậc của cuộc cách mạng khoa học, công nghệ lần thứ ba, xóa nhòa ranh giới giữa các lĩnh vực vật lý, kỹ thuật số và sinh học với trung tâm là sự phát triển trí tuệ nhân tạo, tự động hóa - robot và internet of things (internet kết nối vạn vật) [5]; sẽ có thể thúc đẩy sự liên kết giữa tội phạm trong các lĩnh vực khác nhau và diễn ra những phân khúc mới của thị trường tội phạm. Ví dụ, Quyền II BLHS Cộng hòa Pháp quy định TNHS của pháp nhân được áp dụng đối với 32/88 tội danh khác nhau như: tội “Chống loại loài người” (Điều 213-3); tội “Buôn bán ma túy”; “Tẩy rửa tiền” (Điều 222-42); tội “Làm thí nghiệm y học trái phép” (Điều 223-9); tội “Xâm phạm bí mật đời tư” (Điều 226-7);.... [16].

2.2. Quy định về TNHS đối với pháp nhân thương mại trên thị trường giao dịch tiền ảo

Cuộc Cách mạng công nghệ lần thứ tư đã và đang tác động sâu sắc đến mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Những sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao lần lượt xuất hiện và hình thành những loại tài sản, hàng hóa tham gia lưu thông, trở thành công cụ đầu tư hoặc phương tiện thanh toán, trong đó có các loại tiền ảo như: Bitcoin, ethereum, litecoin, monero, ripple [11].

Theo định nghĩa của Ngân hàng trung ương Châu Âu (ECB), “tiền ảo” là một loại tiền số không có sự quản lý, được phát hành bởi những người phát triển phần mềm - thường là người kiểm soát hệ thống, được sử dụng và chấp nhận thanh toán giữa các thành viên của một cộng đồng ảo nhất định. Về bản chất, các loại tiền ảo được phát triển dựa trên nền tảng công nghệ chuỗi khối (Blockchain).  Blockchain là một dạng cơ sở dữ liệu, là một hình thức lưu trữ hồ sơ giá trị và giao dịch với khả năng lưu giữ gần như toàn bộ các dạng thức thông tin. Đa phần các giao dịch ngày nay giữa các chủ thể đều đòi hỏi một đơn vị trung gian đáng tín cậy đảm nhận và vận hành. Tuy nhiên, không phải ở bất cứ nơi nào và vào bất kỳ thời điểm nào, các định chế trung gian này cũng có thể đảm bảo tính minh bạch, an toàn và chính xác. Công nghệ Blockchain loại bỏ hoàn toàn sự cần thiết phải có một đơn vị trung gian như thế và cho phép mọi người giao dịch trực tiếp với nhau nhưng cũng rất khác biệt với các giao dịch trực tiếp truyền thống, Blockchain có thể đồng thời loại bỏ các rủi ro về bằng chứng giao dịch trực tiếp [12].

Khi vừa ra đời, Bitcoin đã được người khởi tạo đặt tên gọi “cash”. Sau Bitcoin, hàng loạt các dạng “tiền” tương tự bitcoin ra đời như Linden Dollar, Ethereum, Ripple, Libra của Facebook,... Từ một tài nguyên mạng, tiền ảo đã được dùng để thực hiện các giao dịch thanh toán, chuyển đổi hàng hóa tại một số quốc gia như Hoa Kỳ, Nhật Bản [13]

Tại Việt Nam, pháp luật chưa công nhận thị trường tiền ảo và hình thành khung pháp lý để quản lý và sử dụng tiền ảo. Mặc dù thiếu vắng khung pháp lý để quản lý, và sử dụng tiền ảo, tuy nhiên trên thực tế tại Việt Nam trong những năm gần đây cho thấy việc kinh doanh tiền ảo đã diễn ra rất sôi động và liên tục mở rộng về “phạm vi, quy mô”. Điều này đã dẫn đến việc phát sinh các rủi ro, và tranh chấp cho nhà đầu tư.  Điều này, đã gây ảnh hưởng không nhỏ đến sự ổn định của thị trường đầu tư kinh doanh và sự phát triển của nền kinh tế. Đặc biệt, năm 2018 xảy ra vụ việc Công ty cổ phần Modern Tech bị tố “lừa đảo 15 nghìn tỉ đồng” của nhà đầu tư thông qua các giao dịch Tiền ảo iFan và Pincoin. Tại nhiều quốc gia, tiền ảo được phép lưu thông trong giao dịch kinh thương mại và đã hình thành khung chính sách & pháp luật cơ điều chỉnh các giao dịch có liên quan đến tiền ảo (Mỹ, Canada, Nga, Nhật Bản, Úc,…).

Hiện nay, theo tác giả, việc xây dựng khung pháp lý về quản lý và sử dụng tiền ảo là yêu cầu cấp thiết, có thể được thiết kế theo hướng cho phép nhà đầu tư sử dụng tiền ảo để giao dịch và Nhà nước cần có công cụ pháp lý để quản lý nhằm ngăn chặn, hạn chế, kiểm soát các rủi ro. Điều này sẽ tạo cơ chế bảo vệ hữu hiệu đối với quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức sử dụng tiền ảo. Đồng thời, góp phần tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước từ việc thu thuế các giao dịch sử dụng tiền ảo [1]

Trong quá trình xây dựng khung pháp lý về quản lý và sử dụng tiền ảo thì việc nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm để “luật hóa” các quy định về tội phạm sử dụng “tiền ảo” để rửa tiền, tài trợ khủng bố,... trong BLHS là cần thiết. Hiện nay, BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) chưa có quy định điều chỉnh trực tiếp và cụ thể vấn đề này.

Nghiên cứu so sánh, pháp luật Canada, Nhật Bản, Đài Loan,...; đã hình thành khung pháp luật và chính sách về quản lý và sử dụng tiền ảo đã quy định về các tội phạm sử dụng “tiền ảo” để rửa tiền, tài trợ khủng bố; mà Việt Nam tham khảo kinh nghiệm trong quá trình xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý về quản lý và sử dụng tiền ảo. Cụ thể:

Thứ nhất, về xác thực thông tin cá nhân. Pháp luật Nhật Bản quy định các công ty cung cấp dịch vụ trao đổi tiền ảo phải tuân thủ theo các yêu cầu về quy trình xác thực thông tin cá nhân của khách hàng nhằm ngăn chặn những hoạt động phòng chống rửa tiền và tài trợ khủng bổ theo quy định của Đạo Luật Phòng chống chuyển giao tài sản phạm tội (Act on Prevention of Transfer of Criminal Proceeds). Cụ thể, những thủ tục này bao gồm: (i) xác minh và ghi nhận các thông tin định danh của khách hàng trước hoặc sau khi ký kết hợp đồng mở tài khoản; và (ii) lưu giữ hồ sơ xác minh và hồ sơ giao dịch với khách hàng. Ngoài ra, công ty cung cấp dịch vụ trao đổi tiền ảo phải thông báo ngay với cơ quan có thẩm quyền khi có những giao dịch nghi ngờ được xác định

Thứ hai, chống rửa tiền. Vào ngày 19/6/2014, Toàn quyền Canada đã đồng ý với Dự thảo C-31 (Đạo luật thực thi một số quy định về ngân sách được đề xuất trong Quốc hội vào ngày 11 tháng 2 năm 2014 và các biện pháp khác), trong đó bao gồm sửa đổi Thủ tục tố tụng hình sự (liên quan đến rửa tiền) của Canada và Đạo luật về tài chính khủng bố. Luật mới xem các loại tiền ảo, bao gồm Bitcoin, cũng như việc kinh doanh dịch vụ tiền ảo, là công cụ nhằm phục vụ cho mục đích của luật chống rửa tiền. Đạo luật này được xem là luật quốc gia đầu tiên trên thế giới về các loại tiền ảo, và là quy định pháp luật đầu tiên trên thế giới về giao dịch tài chính tiền ảo theo luật chống rửa tiền quốc gia.

Thứ ba, bảo hộ quyền tài sản. Đài Loan là một quốc qua tích cực nhất trong việc tìm kiếm các biện pháp để bảo vệ quyền sở hữu tiền ảo (tài sản ảo) và cũng có thể được xem là quốc gia đi tiên phong trong việc thể chế hóa quan điểm về tài sản ảo thông qua các đoạn mã máy tính được sinh ra từ phần mềm máy tính là Đài Loan. Công văn chính thức của Bộ Tư Pháp Đài Loan số 039030 hướng dẫn thi hành luật về bảo vệ các bản ghi điện tử từ ngày 23/11/2001 quy định theo hướng: “Người sở hữu tài sản ảo có quyền kiểm soát tài khoản và giá trị của các bản ghi điện tử, được tự do bán hoặc chuyển giao chúng” .

Cụ thể, Bộ Tư Pháp nước này đã thông báo Bộ luật Hình sự mà quy định các vật ảo là những tài sản có giá trị và cần được xem như tài sản trong thế giới thực và hành vi trộm cắp tài sản ảo sẽ bị xử theo pháp luật hình sự . Bộ luật đã công nhận rằng tài sản ảo thỏa mãn như là một bộ dữ liệu điện tữ và cần được xem là động sản trong trường hợp bị lừa đảo hoặc bị trộm cắp và quy định này đã chuyển quyền kiểm soát các dữ liệu điện tử của các tài sản ảo đến người sở hữu các vật thể có mã code, không phải chủ sở hữu của hệ thống máy chủ (server) nơi mà mã code đang tồn tại . Bên cạnh đó, Đài Loan cũng đã tạo ra một cơ quan bảo vệ tài sản ảo, chống lại các hành vi như trộm cắp, lừa đảo hay cướp giật.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Trịnh Tuấn Anh, Lê Thanh Hùng (2018), “Pháp luật về quản lý tiền ảo của một số quốc gia và kinh nghiệm cho Việt Nam”, Tạp chí Tòa án nhân dân, Số 4/2018,

2. Trịnh Tuấn Anh (2020), “Khung pháp lý về tiền kỹ thuật số tại Nhật bản, Canada và thực tiễn ở Việt Nam”, Tạp chí Tạp chí Tài Chính, Kỳ 1 Tháng 9/2020 (736)

3. Trịnh Tuấn Anh, Phan Thị Nhật Tài (2018), “Trách nhiệm hình sự của pháp nhân dưới góc độ luật học so sánh”, Tạp chí Tòa án nhân dân, Số 4,

4. Vũ Công Giao, Nguyễn Anh Đức (2018), “Quyền con người trong cách mạng công nghiệp lần thứ bốn”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Số 11 (363),

5. Đoàn Đức Lương (2018), “Các mạng công nghiệp lần thứ tư và những thách thức cho pháp luật Việt Nam”, Kỷ yếu Hội thảo Khoa học quốc tế “Sự đối mặt của pháp luật với những thách thức của thế kỷ 21: Phương hướng đổi mới pháp luật”, Trường Đại học Luật, Đại học Huế,

6. Nguyễn Thanh Tùng (2019), “Chính sách pháp luật trong bối cảnh cách mạng công nghiệp lần thứ tư ở Việt Nam”, Tạp chí Pháp luật và thực tiễn, Số 40,

7. Cao Đức Anh (2015),” Tính chất của tình hình tội phạm sử dụng công nghệ cao tại Việt Nam, thủ đoạn phạm tội và dự báo”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, Số 16 (296),

8. Lê Văn Cảm (2005), “Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự : Phần chung”, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội,

9. Trịnh Quốc Toản (2011), TNHS pháp nhân trong pháp luật hình sự, NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

10. Hoàng Trí Ngọc (2016), “Trách nhiệm hình sự của pháp nhân trong văn kiện pháp lý quốc tế”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, Số 20 (324), tr. 19

11. Lê Vũ Nam (2019), “Tiền ảo và vấn đề xây dựng khung khổ pháp lý quản lý tiền ảo tại Việt Nam”, Tạp chí Tài chính, Số 702,

12. Nguyễn Minh Oanh (2019), “Xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý về tiền ảo trong bối cảnh hội nhập và phát triển”, Nxb. Tư pháp,

13. Đoàn Phương Thảo (2018), “Xây dựng khung pháp lý về tiền ảo tại Việt Nam”, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh,

14. Canadian Dredge & Dock Co. v. The Queen 1985 CanLII 32, [1985] 1 SCR 662

15. Mely Caballero, Lina Gong (2020), “Non-Traditional Security Issues in ASEAN: Agendas for Action”, Yusof Ishak Institute

16. Constance Chevallier-Govers (2017),“The Europeanisation of French Criminal Law”, EuCLR European Criminal Law Review, Volume 7 (2017), Issue 1,

17. Báo Công an TP. Hồ Chí Minh (2020), [http://congan.com.vn/vu-an/them-6-lanh-dao-nhan-vien-cong-ty-dia-oc-alibaba-bi-bat-tam-giam_101371.html], 

18. Báo Vnexpress (2018), [ttps://vnexpress.net/nhung-vu-lua-dao-tien-ao-gay-chan-dong-viet-nam-3784561.html]

ĐÀO ĐỨC HẠNH

Luật sư, Công ty Luật Việt Đông Á, Đoàn Luật sư TP. Hồ Chí Minh

TRỊNH TUẤN ANH

ThS, Hòa giải viên STAC, Cố vấn pháp lý cao cấp Công ty Luật Việt Đông Á

Để vai trò đại diện nhân dân trong xét xử thực chất, hiệu quả hơn

Tước quân tịch của quân nhân trong trường hợp nào?

(LSVN) – Tước quân tịch là việc quân nhân bị xóa tên khỏi danh sách quân nhân và tước quyền lợi mà bản thân quân nhân và gia đình được hưởng về quân nhân đó. Vậy theo quy định của pháp luật hiện hành, tước quân tịch của quân nhân trong trường hợp nào? Bạn đọc D.K. hỏi.

Ảnh minh họa.

Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017 không quy định “tước danh hiệu quân nhân” (hay “tước quân tịch”) là hình phạt bổ sung nữa. Đây là một hình thức xử lý kỷ luật áp dụng cho đối tượng là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, hạ sĩ quan, binh sĩ được quy định tại Điều 10 thông tư 16/2020/TT-BQP ngày 21/02/2020 của Bộ Quốc phòng quy định việc áp dụng các hình thức kỷ luật, trình tự, thủ tục, thời hiệu, thời hạn và thẩm quyền xử lý kỷ luật trong Bộ Quốc phòng.

Theo khoản 1 Điều 2 Thông tư 16/2020/TT-BQP, đối tượng áp dụng hình thức xử lý kỷ luật “tước danh hiệu quân nhân” là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, hạ sĩ quan, binh sĩ (sau đây gọi chung là quân nhân), công chức quốc phòng, công nhân quốc phòng, viên chức quốc phòng (sau đây gọi chung là công chức, công nhân và viên chức quốc phòng) và các cơ quan, đơn vị, tổ chức, cá nhân có liên quan.

Các trường hợp bị tước danh hiệu quân nhân

Tại thông tư số 16/2020/TT-BQP của Bộ Quốc phòng quy định về các trường hợp bị tước danh hiệu quân nhân như sau:

– Chống mệnh lệnh (Điều 13):

Không chấp hành mệnh lệnh hoặc không thực hiện nhiệm vụ khi người chỉ huy trực tiếp hoặc cấp có thẩm quyền giao mà chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự khi là chỉ huy hoặc sĩ quan; lôi kéo người khác tham gia; trong sẵn sàng chiến đấu; đã bị xử lý kỷ luật mà còn vi phạm.

– Làm nhục, hành hung người chỉ huy hoặc cấp trên (Điều 16)

Dùng lời nói, hành động xúc phạm đến nhân phẩm, danh dự, uy tín, thân thể người chỉ huy hoặc cấp trên khi là sĩ quan; gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe nhưng chưa tới mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc lôi kéo người khác tham gia.

– Làm nhục hoặc dùng nhục hình đối với cấp dưới (Điều 17)

Người chỉ huy hoặc cấp trên dùng lời nói hoặc có hành động xúc phạm đến nhân phẩm, danh dự, thân thể của cấp dưới khi đã bị xử lý kỷ luật mà còn vi phạm hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe nhưng chưa tới mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

– Làm nhục, hành hung đồng đội (Điều 18):

Dùng lời nói hoặc có hành động xúc phạm đến nhân phẩm, danh dự, thân thể đồng đội mà giữa họ không có quan hệ chỉ huy và phục tùng khi gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe nhưng chưa tới mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự; lôi kéo người khác tham gia hoặc đã bị xử lý kỷ luật mà còn vi phạm; gây ảnh hưởng đến việc thực hiện nhiệm vụ của đơn vị.

– Đào ngũ (Điều 20)

Tự ý rời khỏi đơn vị lần đầu quá 03 (ba) ngày đối với sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân và viên chức quốc phòng; quá 07 (bảy) ngày đối với hạ sĩ quan, binh sĩ nhưng không thuộc các trường hợp được quy định tại Bộ luật hình sự khi gây hậu quả nhưng chưa đến mức độ nghiêm trọng, khi đang làm nhiệm vụ; đã bị xử lý kỷ luật mà còn vi phạm hoặc lôi kéo người khác tham gia.

– Vô ý làm lộ bí mật hoặc làm mất tài liệu bí mật quân sự (Điều 22)

Vô ý làm lộ bí mật hoặc làm mất tài liệu bí mật quân sự, bí mật Nhà nước nhưng chưa tới mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự mà đã được nhắc nhở, chấn chỉnh nhưng thực hiện không nghiêm; trong khu vực có tình hình an ninh chính trị mất ổn định; đã bị xử lý kỷ luật mà còn vi phạm hoặc đơn vị không hoàn thành nhiệm vụ

– Vi phạm các quy định về quản lý, sử dụng vũ khí quân dụng, trang bị kỹ thuật quân sự (Điều 27)

Quản lý, sử dụng vũ khí, trang bị kỹ thuật quân sự sai quy định để xảy ra mất an toàn về người, vũ khí, trang bị, phương tiện, tài sản khi là chỉ huy hoặc sĩ quan; là người có chuyên môn nghiệp vụ về vũ khí, trang bị kỹ thuật quân sự hoặc đã bị xử lý kỷ luật mà còn vi phạm.

– Vô ý làm mất hoặc làm hư hỏng vũ khí quân dụng, trang bị kỹ thuật quân sự (Điều 28)

Vô ý làm mất hoặc làm hư hỏng vũ khí, phương tiện kỹ thuật quân sự khi là chỉ huy hoặc sĩ quan; trong chiến đấu, sẵn sàng chiến đấu hoặc không có biện pháp tích cực ngăn chặn;

– Chiếm đoạt hoặc hủy hoại chiến lợi phẩm (Điều 29)

Chiếm đoạt hoặc hủy hoại chiến lợi phẩm nhưng chưa tới mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự khi là chỉ huy hoặc sĩ quan; đã bị xử lý kỉ luật mà còn vi phạm hoặc gây ảnh hưởng xấu đến đơn vị.

– Quấy nhiễu nhân sân (Điều 30)

Khi tiếp xúc với nhân dân mà có hành vi đòi hỏi, yêu sách, quấy nhiễu, gây phiền hà, khó khăn, cản trở sinh hoạt bình thường của nhân dân hoặc xâm phạm đến sức khỏe, nhân phẩm, danh dự, tài sản của nhân dân nhưng chưa tới mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự khi là chỉ huy hoặc sĩ quan; lôi kéo người khác tham gia; trong khu vực có chiến sự hoặc tình trạng khẩn cấp; gây ảnh hưởng đến uy tín, danh dự của Quân đội.

– Chiếm đoạt tài sản (Điều 33)

Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc dùng các thủ đoạn khác để chiếm đoạt tài sản của Nhà nước, tổ chức, công dân có giá trị dưới 2.000.000 (hai triệu) đồng nếu lôi kéo người khác tham gia hoặc làm ảnh hưởng đến việc thực hiện nhiệm vụ của đơn vị.

– Sử dụng trái phép các chất ma túy (Điều 38)

– Vi phạm pháp luật bị tòa tuyên án phạt tù và phải chấp hành hình phạt tại trại giam thì bị kỷ luật tước danh hiệu quân nhân (đối với quân nhân)

– Và một số hành vi khác theo văn bản kỷ luật.

Mọi vi phạm kỷ luật phải được phát hiện, ngăn chặn kịp thời và phải bị xử lý nghiêm minh; hậu quả do vi phạm kỷ luật gây ra phải được khắc phục theo đúng quy định của pháp luật.

Không áp dụng hình thức kỷ luật tước danh hiệu quân nhân đối với nữ quân nhân quốc phòng khi mang thai, nghỉ thai sản, nuôi con dưới 12 tháng tuổi.

Trường hợp bị kỷ luật tước danh hiệu quân nhân thì chỉ huy đơn vị quản lý quân nhân bị xử lý từ cấp trung đoàn và tương đương trở lên phải cử người đưa quân nhân bị kỷ luật, cùng toàn bộ hồ sơ có liên quan bàn giao cho cơ quan quân sự cấp huyện nơi quân nhân cư trú (trừ trường hợp đào ngũ không trở lại đơn vị hoặc bị tòa án tuyên án phạt tù).

Điểm b khoản 1 Điều 43 Thông tư 16/2020/TT-BQP quy định rõ không áp dụng thời hiệu đối với hành vi vi phạm đến mức phải tước danh hiệu quân nhân.

HỒNG HẠNH

Tạo lập môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi, thúc đẩy sự phát triển của doanh nghiệp

Từ khoá : LSVN