Ở Việt Nam, công dân có nghĩa vụ hiến định phải tuân thủ Hiến pháp và pháp luật. Để thực hiện được nghĩa vụ này, trong mọi hoạt động của đời sống, người dân phải tìm hiểu và nắm được các quy định của pháp luật liên quan trực tiếp tới các hành vi mình thực hiện. Tuy nhiên thực tế cho thấy, hệ thống các quy định pháp luật của Việt Nam rất phức tạp khiến nhiều trường hợp chỉ tới khi bị kiện dân sự, bị xử lý hành chính, hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự nhiều người mới biết hành vi của mình là vi phạm pháp luật. Đặc biệt tại những nơi vùng sâu, vùng xa, hải đảo, nơi kinh tế khó khăn, tình trạng này lại càng phổ biến. Khi đó, người dân không có quyền nại ra tại phiên tòa việc mình không biết luật để loại trừ trách nhiệm của bản thân. Điều này không chỉ đặt ra yêu cầu tăng cường triển khai các biện pháp nâng cao ý thức pháp luật cho người dân mà cùng với đó là trách nhiệm của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải ban hành các văn bản quy phạm pháp luật dựa trên nền tảng nhận thức cơ bản của người dân.
Nguyên tắc ai cũng phải biết luật - nemo censetur ignorare legem
Pháp luật suy đoán mọi người khi đã đạt đến một độ tuổi luật định, ai cũng có đầy đủ năng lực nhận thức về pháp luật và hành vi của mình nên đặt ra nghĩa vụ phải biết luật trên cơ sở của nguyên tắc nemo censetur ignorare legem. Nguyên tắc này có từ thời La Mã cổ đại, có mối liên hệ chặt chẽ với nguyên tắc leges instituuntur cum promulgantur (luật pháp được thiết lập khi chúng được ban hành). Hai nguyên tắc trên đặt ra giả định nếu một đạo luật được ban hành công khai, đúng thẩm quyền, chặt chẽ về mặt nội dung thì kể từ khi có hiệu lực, đạo luật ấy đã truyền đi những nội dung của nó tới tất cả mọi người trong phạm vi không gian và thời gian điều chỉnh của nó. Bất kỳ một ai thực hiện một hành vi hay đưa ra một quyết định nào nằm trong hiểu biết của một người thông thường đều phải nhận thức được pháp luật liên quan đến hành vi và quyết định ấy. Như vậy, không ai có thể biện minh cho hành vi của mình với lý do không biết pháp luật và phải chịu trách nhiệm về hành vi đó.
Ngay cả khi về mặt thực tế, giả định này là bất khả thi bởi lẽ để một xã hội vận hành trật tự, nhà nước ban hành rất nhiều đạo luật khác nhau và không phải ai (ngay cả với những người được đào tạo bài bản về pháp luật) cũng có khả năng hiểu được hết nội dung của chúng, nguyên tắc này vẫn được thừa nhận và duy trì. Sự duy trì của nguyên tắc này để bảo đảm rằng không xảy ra tình trạng một người biết và có nghĩa vụ phải biết về một quy phạm pháp luật nhưng đã cố tình không thực hiện nghĩa vụ và nại ra việc mình không biết luật để né tránh trách nhiệm.
Triết lý của nguyên tắc nemo censetur ignorare legem đã trở thành cơ sở hình thành các đặc điểm của pháp luật trong một nhà nước dân chủ: (1) Tính quy phạm phổ biến; (2) Tính bắt buộc chung của pháp luật; (3) Tính chặt chẽ về mặt hình thức.
Tính quy phạm phổ biến và tính bắt buộc chung của pháp luật yêu cầu pháp luật phải được công khai, mang tính bắt buộc chung, là khuôn mẫu áp dụng cho mọi chủ thể trong phạm vi hiệu lực lãnh thổ của nó, không phân biệt tuổi tác, giới tính, địa vị xã hội, trình độ học thức, xuất thân, vùng miền… Để thực hiện được điều này, yêu cầu pháp luật phải hướng đến những giá trị công bằng, bình đẳng, bất kỳ ai ở trong điều kiện, hoàn cảnh của riêng họ cũng phải và có thể xử sự theo khuôn mẫu được pháp luật quy định. Trong thuyết khế ước xã hội, Rousseau đã khẳng định, quyền lực trong xã hội thuộc về người dân, người dân bớt một phần quyền đó của mình, trao nó cho nhà nước để tổ chức này thực hiện việc quản lý xã hội. Mỗi lá phiếu của người dân có giá trị như nhau, do đó, nhà nước có trách nhiệm bảo đảm sự bình đẳng giữa các chủ thể đã tạo nên mình bằng pháp luật. Vì vậy, nhà làm luật có trách nhiệm đánh giá các giá trị mang tính chất bình quân trong xã hội và phản ánh nó vào trong quy định của các điều luật.
Chỉ như vậy, pháp luật mới có khả năng tiếp cận được đến những ngõ ngách sâu thẳm nhất, tới mọi chủ thể trong lòng xã hội. Trên cơ sở của tinh thần này, để bảo đảm chắc chắn mọi người đều có khả năng tiếp cận và hiểu về pháp luật, trong quá trình lập pháp, nhà nước phải bảo đảm tính chặt chẽ về mặt hình thức của pháp luật. Điều này đòi hỏi văn bản quy phạm pháp luật phải được diễn đạt chính xác, đơn nghĩa để ai đọc cũng hiểu đúng và thực hiện chính xác nội dung của các quy định. Sự rõ ràng, minh bạch, phổ thông, dễ hiểu, dễ vận dụng là điều đặc biệt quan trọng trong việc xây dựng và thực hiện pháp luật.
Ở Việt Nam, dù không được ghi nhận một cách chính thức song Điều 46 Hiến pháp năm 2013 đã gián tiếp thừa nhận nguyên tắc mọi người phải biết luật. Theo đó, công dân có nghĩa vụ tuân theo Hiến pháp và pháp luật; tham gia bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội và chấp hành những quy tắc sinh hoạt công cộng. Tinh thần của Điều 46 Hiến pháp năm 2013 đã được thể hiện rất rõ trong hệ thống pháp luật quốc gia. Chẳng hạn, Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định công dân có nghĩa vụ tích cực tham gia phòng, chống tội phạm, bất kỳ ai thực hiện một tội phạm đều phải chịu trách nhiệm hình sự. Do vậy, khi một cá nhân thực hiện một tội phạm, tòa án không cần chứng minh việc người đó biết luật (nhận thức được hành vi của mình bị luật hình sự cấm) mà chỉ cần chứng minh người này có ý định phạm tội là đủ. Khoản 2 Điều 3 Bộ luật Dân sự năm 2015 ghi nhận nghĩa vụ bảo đảm sự tự do ý chí trên cơ sở pháp luật khi quy định cá nhân, pháp nhân xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình trên cơ sở tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận. Mọi cam kết, thỏa thuận không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội có hiệu lực thực hiện đối với các bên và phải được chủ thể khác tôn trọng. Luật Đất đai năm 2013 quy định trách nhiệm của người sử dụng đất phải thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình trong thời hạn sử dụng đất theo quy định của Luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan…
Trường hợp một người vi phạm pháp luật, tùy vào quan hệ xã hội cụ thể mà họ tham gia, người vi phạm phải chịu trách nhiệm dân sự, trách nhiệm hành chính hoặc trách nhiệm hình sự. Chỉ trong một số trường hợp nhất định, người vi phạm không nhận thức được nghĩa vụ phải biết luật của mình mới được miễn, giảm mức trách nhiệm. Bởi vậy, pháp luật chia ra thành những trường hợp cụ thể như sau:
Trường hợp 1: Người vi phạm bị mất năng lực nhận thức do mắc bệnh tâm thần. Khi đó các dạng trách nhiệm pháp lý đối với hành vi trái pháp luật của người này được loại trừ.
Trường hợp 2: Người vi phạm bị mắc bệnh họ bị hạn chế một phần năng lực nhận thức. Trong trường hợp này, họ vẫn phải chịu trách nhiệm nhưng được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hành chính hoặc trách nhiệm hình sự.
Trường hợp 3: Người vi phạm do lạc hậu, không biết quy định của pháp luật nên vi phạm. Trong trường hợp này, trách nhiệm đối với người vi phạm không được loại trừ dù trên thực tế, có thể họ chưa bao giờ được tiếp cận, biết về quy định pháp luật đó. Tuy nhiên, để bảo đảm tính nhân văn trong xử lý trách nhiệm, pháp luật cho rằng đây là một tình tiết để giảm nhẹ trách nhiệm pháp lý người vi phạm phải chịu.
Trường hợp 4: Người vi phạm có đầy đủ năng lực nhận thức và năng lực hành vi song vì các lý do chủ quan và khách quan, họ không biết về nội dung của quy định pháp luật nên vi phạm. Trong trường hợp này, họ phải chịu toàn bộ trách nhiệm về hành vi trái pháp luật của mình.
Một số nguyên nhân dẫn đến tình trạng vi phạm nghĩa vụ mọi người phải biết luật
Dù nguyên tắc mọi người phải biết luật được thừa nhận song thực tế cho thấy chỉ tới khi bị kiện dân sự, bị xử lý hành chính, cá biệt, bị truy cứu trách nhiệm hình sự nhiều người mới biết hành vi của mình là vi phạm pháp luật. Chẳng hạn như trong lĩnh vực luật hình sự, công dân có nghĩa vụ tích cực tham gia phòng, chống tội phạm, vì vậy, pháp luật hình sự quy định tội không tố giác tội phạm tại Điều 314 Bộ luật Hình sự năm 1999, Điều 390 Bộ luật Hình sự năm 2015. Qua theo dõi các phiên tòa hình sự, rất nhiều bị cáo không biết mình vi phạm quy định về tố giác tội phạm trong Bộ luật Hình sự. Giai đoạn 2011-2015 trước khi Bộ luật Hình sự năm 2015 có hiệu lực, đã có hàng trăm bị cáo bị đưa ra xét xử về tội "Không tố giác tội phạm". Tuy nhiên, điều đáng chú ý là trong đa số những người bị kết án chỉ đến khi bị cơ quan điều tra triệu tập lấy cung và giải thích thì họ mới biết, hành vi mà họ thực hiện đã cấu thành tội phạm. Sau đó, họ phải ra trước bục khai báo và phải nhận bản án tù mà lẽ ra, nếu hiểu biết về pháp luật thì bản án đó đã không có với họ.
Phân tích các trường hợp đã bị xử phạt hoặc bị xét xử cho thấy việc người vi phạm không biết đến quy định pháp luật mà họ đã vi phạm xuất phát từ một số nguyên nhân chủ yếu sau:
Một là, việc thực hiện trách nhiệm phổ biến, giáo dục pháp luật của cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị chưa đầy đủ, toàn diện, sâu sắc. Còn tình trạng xem nhẹ công tác này, nhiều nơi tổ chức còn hình thức mang tính chất phục vụ báo cáo cuối năm.
Hai là, công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục tại địa phương, nhất là tại những nơi vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo… gặp rất nhiều khó khăn.
Ba là, ý thức chủ động tìm hiểu, trau dồi, bổ sung kiến thức về pháp luật của người dân chưa cao. Tại những nơi có trình độ dân trí còn hạn chế, người dân chịu tác động của nhiều yếu tố như văn hóa, phong tục, tập quán lạc hậu khiến việc truyền bá pháp luật không hiệu quả. Ngay cả tại những thành phố lớn, có tình trạng nhiều người xem nhẹ vai trò của việc đọc và nghiên cứu các thông tin về pháp luật, chỉ đến khi vướng vào kiện tụng mới bắt đầu việc tìm hiểu các thông tin pháp luật liên quan.
Bốn là, phương pháp tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật mang tính chất cục bộ, chưa có sự linh hoạt, không đáp ứng được với các yếu tố đặc thù của từng nhóm đối tượng, địa bàn dẫn đến hiệu quả của công tác này không cao.
Năm là, nhiều văn bản quy phạm pháp luật có nội dung phức tạp, văn phong hàn lâm khiến việc tiếp cận và hiểu nội dung các văn bản này là rất khó khăn đối với những người không có chuyên môn về pháp luật.
Sáu là, việc thực hiện trách nhiệm bố trí kinh phí cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật chưa đồng đều giữa các địa phương, ngay cả đối với các địa phương có điều kiện kinh tế - xã hội tương đồng...
Một số kiến nghị tăng cường hiệu quả của công tác giáo dục, phổ biến giáo dục pháp luật của Nhà nước
Những tồn tại nói trên trong nhiều năm qua đã được các cơ quan nhà nước, trong đó đầu mối là Bộ Tư pháp từng bước khắc phục song thực tế hiệu quả chưa đạt được như mong muốn đề ra. Để từng bước nâng cao được hiểu biết, ý thức tuân thủ và chấp hành pháp luật của nhân dân, bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa, cần thực hiện đồng bộ một số giải pháp sau:
Một là, cần tích cực hoàn thiện hệ thống pháp luật, bảo đảm sự thống nhất, tường minh, trong sáng và hài hòa của các quy phạm pháp luật. Trong Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Đảng đã nhận định xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong sạch, vững mạnh; cải cách tư pháp, tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của nhiệm kỳ 2021-2026. Để làm tốt được công tác này, bảo đảm chính sách, pháp luật được tiếp cận bởi mọi người dân là điều cần phải thực hiện, phải coi đây là nhiệm vụ của toàn bộ hệ thống chính trị từ trung ương đến địa phương, từ các cơ quan nhà nước đến các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội, hạn chế tối đa tình trạng xuất hiện và tồn tại những “vùng trũng” về hiểu biết pháp luật. Đặc biệt trong bối cảnh ở Việt Nam là một quốc gia có tới 54 dân tộc với các bản sắc văn hóa, phong tục, tập quán khác nhau, pháp luật phải có sự hài hòa với các yếu tố này. Chính vì vậy, nếu kỹ thuật lập pháp của các cơ quan nhà nước kém sẽ làm nội dung của văn bản quy phạm pháp luật trở nên khó hiểu, khó tiếp cận. Điều này yêu cầu những cán bộ làm công tác xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật phải không ngừng trau dồi, nâng cao kỹ thuật lập pháp, bên cạnh kiến thức chuyên môn phải có sự am hiểu về các vấn đề văn hóa, xã hội để pháp luật thực sự dễ tiếp cận và phục vụ cho đời sống nhân dân.
Hai là, phải thực hiện công tác giáo dục, phổ biến pháp luật một cách linh hoạt, uyển chuyển, xác định rõ đối tượng để có phương pháp phổ biến phù hợp. Xác định đúng đối tượng sẽ giúp các cán bộ làm công tác giáo dục, phổ biến pháp luật có phương pháp triển khai đúng đắn. Công tác phân loại này phải được thực hiện trên cơ sở các luận cứ khoa học, dựa vào các chỉ số đánh giá chấp hành pháp luật của từng nhóm đối tượng, từng địa bàn để xây dựng các kế hoạch triển khai phù hợp. Chẳng hạn tại những địa bàn vùng sâu, vùng xa khi tỷ lệ không biết chữ còn cao, việc bố trí hệ thống truyền thanh để tuyên truyền, phổ biến nội dung pháp luật là cần thiết hơn so với những nơi có dân trí cao. Tại những nơi đồng bào dân tộc đọc, nghe và nói tiếng Kinh chưa phổ biến, bên cạnh việc triển khai công tác bằng hệ thống loa truyền thanh, phải lưu ý chọn phát thanh viên là người địa phương, nói và am hiểu về tiếng bản địa bảo đảm nội dung của các văn bản quy phạm pháp luật được truyền tải một cách chính xác. Thậm chí một số địa bàn cần nghiên cứu triển khai việc giáo dục, phổ biến pháp luật qua các phương thức độc đáo như qua hương ước, quy ước, luật tục (quy phạm xã hội) tại địa phương, hay qua hệ thống “sách nói” tiếng dân tộc… Sự phân loại càng chính xác càng giúp việc phổ biến, giáo dục pháp luật càng hiệu quả, góp phần nâng cao nhận thức và tinh thần chấp hành pháp luật của người dân tại địa phương.
Ba là, để việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật có tác dụng thực tế thì Nhà nước cần nâng cao đời sống cho người dân ở những vùng dân tộc và có chính sách để hỗ trợ thay đổi việc làm, thay đổi hình thức sản xuất kinh doanh… từ lợi thế và thực tế ở địa phương. Bởi ở những địa bàn này, do đời sống của người dân chưa được bảo đảm nên họ phải tìm mọi cách để tồn tại, ngay cả làm những việc mà họ biết là vi phạm pháp luật. Ví dụ: Ở những vùng sâu, vùng xa do hoàn cảnh khó khăn và điều kiện khí hậu phù hợp nên người dân thường trồng cây thuốc phiện. Đối với trường hợp này, Nhà nước nên có những chính sách linh hoạt hỗ trợ họ thay đổi phương thức sản xuất khác như nghiên cứu, hướng dẫn người dân trồng các loại cây dược liệu khác phù hợp thổ nhưỡng hoặc cấp phép cho những hộ gia đình có đủ điều kiện để trồng cây cần sa với số lượng và chất lượng được kiểm soát nghiêm ngặt nhằm cung cấp cho lĩnh vực y tế. Khi Nhà nước quan tâm hơn đến cuộc sống của người dân và linh hoạt trong việc áp dụng các chính sách mới với từng địa phương thì sẽ tạo nền tảng tốt để người dân tuân thủ những quy định của pháp luật.
Cuối cùng, cần phải bố trí nguồn ngân sách phù hợp với công tác phổ biến, giáo dục pháp luật từ trung ương đến địa phương. Hàng năm, trên cơ sở nguồn ngân sách nhà nước được phân bổ, các nguồn thu tại địa bàn, các địa phương, đơn vị phải có nguồn kinh phí tương xứng đối với hoạt động giáo dục, phổ biến pháp luật. Việc sử dụng ngân sách nhà nước tại địa phương phải bảo đảm nguyên tắc tiết kiệm, linh hoạt, sáng tạo, hiệu quả trên cơ sở của pháp luật và yêu cầu thực tế đặt ra. Tại Trung ương, ngoài việc phân bổ nguồn ngân sách theo kế hoạch, cần tích cực triển khai các hoạt động kiểm gia, giám sát thường xuyên để đánh giá hiệu quả của việc sử dụng ngân sách nhà nước vào phục vụ công tác phổ biến, giáo dục pháp luật tại các địa phương, đơn vị. Từ đó, Nhà nước có sự điều chỉnh phù hợp trong tổ chức và cách thức phân bổ ngân sách nhằm bảo đảm hiệu quả tối đa của công tác này, hướng tới việc giải quyết một cách hiệu quả tình trạng không biết luật của người dân.
Thạc sĩ, Luật sư NGUYỄN QUANG ANH
Công ty TNHH Luật Sao Việt, Đoàn Luật sư TP. Hà Nội
Trách nhiệm hình sự của pháp nhân khi vi phạm quy định phòng chống dịch