/ Nghề Luật sư
/ Những điểm mới trong dự thảo Tờ trình Luật Luật sư

Những điểm mới trong dự thảo Tờ trình Luật Luật sư

10/07/2024 03:39 |

(LSVN) - Ngày 29/6/2006, tại Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XI đã thông qua Luật Luật sư số 65/2006/QH11, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2007 và được sửa đổi, bổ sung bởi Luật Luật sư số 20/2012/QH13 ngày 20/11/2012 của Quốc hội (sau đây gọi tắt là Luật Luật sư). Sau hơn 17 năm thực hiện, Luật Luật sư đã đi vào cuộc sống, đạt nhiều kết quả, tạo hành lang pháp lý cho tổ chức và hoạt động của luật sư phát triển. Tuy nhiên, Luật Luật sư cũng đã bộc lộ một số hạn chế, bất cập, chưa phù hợp với thực tiễn phát triển nghề Luật sư.

Ảnh minh họa.

Mới đây, Bộ Tư pháp đã có Tờ trình đề nghị xây dựng Luật Luật sư thay thế Luật Luật sư số 65/2006/QH11 ngày 29/6/2006 của Quốc hội (được sửa đổi, bổ sung bởi Luật số 20/2012/QH13 ngày 20/11/2012 của Quốc hội) nhằm hoàn thiện một số hạn chế, bất cập, chưa phù hợp với thực tiễn phát triển của nghề Luật sư. Đồng thời, cũng phù hợp với Bộ luật Tố tụng hình sự, Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Tố tụng hành chính, Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam, các văn bản quy phạm pháp luật về thủ tục hành chính…

Những điểm mới trong dự kiến đề cương Luật Luật sư

Thứ nhất, quy định tất cả các trường hợp Luật sư thực hiện cung cấp dịch vụ pháp lý có thu phí phải ký hợp đồng dịch vụ pháp lý. Nội dung này được quy định tại Điều 5. Dịch vụ pháp lý là dịch vụ đặc thù liên quan trực tiếp đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản, uy tín của công dân. Hoạt động cung cấp dịch vụ pháp lý của Luật sư thuộc nhóm  hoạt động bổ trợ Tư pháp nhằm mục đích góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của tổ quốc, góp phần phát triển kinh tế - xã hội, vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Chính vì tầm quan trọng của hoạt động dịch vụ pháp lý ảnh hưởng trực tiếp tới các quyền của con người nên việc bắt buộc ký hợp đồng dịch vụ pháp lý nhằm ràng buộc quyền và nghĩa vụ của các bên trong hoạt động đặc biệt này. Trong dự thảo Luật Luật sư bộ tư phải đưa vào Điều 5 với nội dung trên là phù hợp giúp việc quản lý nhà nước về hoạt động luật sự một cách hiệu quả đồng thời góp phần ngày một nâng cao chất lượng dịch vụ pháp lý của đội ngũ Luật sư.

Thứ hai, đối với những người được miễn, giảm đào tạo nghề Luật sư. Tại dự thảo đã rà soát để bổ sung một số đối tượng được giảm thời gian đào tạo nghề Luật sư (chấp hành viên thanh tra viên trong lĩnh vực pháp luật, trợ giúp viên pháp lý); nâng cao điều kiện được miễn đào tạo nghề Luật sư nhằm nâng cao chất lượng, tiêu chuẩn trở thành Luật sư theo hướng, những người nguyên là thẩm phán, kiểm sát viên, điều tra viên… muốn trở thành Luật sư phải có thời gian giữ chức danh nêu trên ít nhất 01 nhiệm kỳ (05 năm) và phải qua thời gian đào tạo nghề Luật sư từ 03-06 tháng.

Nghề Luật sư là một nghề đặc thù, làm việc và có thể va chạm với những người có địa vị trong xã hội, công việc của Luật sư có thể ảnh hưởng tới “số phận” của con người, doanh nghiệp. Luật sư có nghĩa vụ bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của thân chủ nhưng luôn phải tôn trọng công lý, lẽ công bằng. Luật sư không chỉ là nghề nghiệp để sống mà còn là sứ mệnh để giúp đỡ những thân phận yếu thế trong xã hội.

Chính vì vậy, Luật sư ngoài việc có kỹ năng chuyên môn, nghiệp vụ còn phải am hiểu về nhiều lĩnh vực khác nhau như kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và Luật sư phải có những kỹ năng mềm như biết lắng nghe, thấu hiểu, chia sẻ, hiểu về tâm lý, cách sống, phong tục tập quán của mỗi vùng miền khác nhau.

Ngoài kiến thức chuyên môn thì Luật sư có Bộ quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp Luật sư khá đặc trưng và khác so với những ngành nghề khác như thẩm phán, kiểm sát viên, điều tra viên, giáo sư, phó giáo sư chuyên ngành luật và tiến sĩ luật …

Thẩm phán, Kiểm sát viên, Điều tra viên, Giáo sư, Phó giáo sư chuyên ngành luật và Tiến sĩ luật… có thể am hiểu pháp luật, giải quyết vụ việc trên cơ sở pháp luật nhưng để hành nghề Luật sư thì còn nhiều yếu tố như đã phân tích ở trên. Vì vậy, có thể xem xét giảm thời gian đào tạo và tập sự hành nghề Luật sư cho họ nhưng không nên miễn việc đào tạo và tập sự.

Thứ ba, mở rộng và quy định cụ thể hơn về các công việc Luật sư tập sự được làm (được thực hiện tư vấn pháp luật; tham gia tố tụng cấp huyện) tại Điều 14.

Luật Luật sư hiện hành đã quy định theo hướng thu hẹp nhiều các hoạt động mà người tập sự hành nghề Luật sư được thực hiện so với Pháp lệnh Tổ chức Luật sư năm 1987, Pháp lệnh Luật sư năm 2001.

Hiện nay, quy định về người tập sự hành nghề Luật sư được quy định trong Luật Luật sư và Thông tư 10/2021/TT-BTP. Tuy nhiên, người tập sự hành nghề Luật sư lại không phải là chủ thể tham gia tố tụng theo quy định trong các luật tố tụng hiện hành nên dẫn đến chưa có sự đồng bộ trong quy định của các văn bản pháp luật. Hiện nay, theo khoản 3 Điều 14 Luật Luật sư quy định: “Người tập sự hành nghề Luật sư được giúp Luật sư hướng dẫn trong hoạt động nghề nghiệp nhưng không được đại diện, bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho khách hàng tại phiên tòa, không được ký văn bản tư vấn pháp luật”. Quy định này của luật hiện hành được nhiều người ví như việc đi học bơi nhưng lại không được cho xuống nước, trong khi đây lại là những kỹ năng chính và cần thiết phải được người tập sự hành nghề Luật sư thực hành liên tục trong thực tế. Chỉ khi được tiếp xúc với các hoạt động tố tụng ngay từ đầu mới giúp cho người tập sự Luật sư hay Luật sư tập sự nắm bắt được các kỹ năng cần thiết và tránh việc bị bỡ ngỡ khi trở thành Luật sư chính thức.

Dự thảo Tờ trình mở rộng và quy định cụ thể hơn về các công việc Luật sư tập sự được làm như được tư vấn pháp luật; tham gia tố tụng cấp huyện là phù hợp với ý nghĩa của hoạt động tập sự hành nghề Luật sư. Bởi lẽ, thực tế cho thấy trong một số vụ việc dân sự đơn giản, khách hàng vẫn tin tưởng và đồng ý với Luật sư hướng dẫn là để người tập sự đại diện cho mình tại phiên tòa để giúp giảm chi phí thù lao Luật sư, đồng thời. Xét về khía cạnh ý chí và lợi ích thiết thực thì cả tổ chức hành nghề Luật sư nơi tập sự, Luật sư hướng dẫn, khách hàng và Luật sư tập sự đều được được lợi. Bởi lẽ người tập sự thì rất cần có thêm kinh nghiệm quý báu từ hoạt động thực tiễn.

Thứ tư, việc gia nhập Đoàn Luật sư, tại dự thảo đã sửa đổi thời điểm gia nhập Đoàn Luật sư khi đăng ký tập sự (trở thành Luật sư tập sự) thay vì thời điểm sau khi được cấp Chứng chỉ hành nghề Luật sư như Luật Luật sư hiện hành.

Theo quy định của Luật Luật sư hiện hành tại khoản 1, Điều 20 quy định Người có Chứng chỉ hành nghề Luật sư có quyền lựa chọn gia nhập một Đoàn Luật sư để hành nghề Luật sư. Người đã gia nhập Đoàn Luật sư phải làm việc theo hợp đồng lao động cho tổ chức hành nghề Luật sư, hành nghề với tư cách cá nhân theo hợp đồng lao động cho cơ quan, tổ chức hoặc thành lập, tham gia thành lập tổ chức hành nghề Luật sư theo quy định của Luật này tại địa phương nơi Đoàn Luật sư có trụ sở. Như vậy với quy định hiện hành thì người muốn gia nhập Đoàn Luật sư thì phải có chứng chỉ hành nghề Luật sư. Việc quy định như vậy gây nhiều khó khăn cho công tác quản lý người tập sự hành nghề Luật sư của Đoàn Luật sư, bởi quá trình tập sự người tập sự hành nghề Luật sư chưa phải là thành viên của Đoàn Luật sư.

Việc sửa đối Điều 20 theo hướng thời điểm gia nhập Đoàn Luật sư là khi đăng ký tập sự đã mở được nút thắt về việc quản lý người tập sự hành nghề Luật sư của Đoàn Luật sư. Đồng thời tạo điều kiện cho những người tập sự hành nghề Luật sư có cơ hội để cống hiến và gắn bó với Đoàn Luật sư hơn.

Thứ năm, quy định rõ nội hàm “dịch vụ pháp lý khác”, việc “xác nhận giấy tờ, các giao dịch và giúp đỡ khách hàng thực hiện công việc khác theo quy định của pháp luật”. Đây là nội dung rất đáng chú ý tại dự thảo tờ trình, thực tiễn hành nghề Luật sư có rất nhiều dịch vụ gây tranh cái đây có phải là dịch vụ pháp lý khác hay không.

Theo quy định tại khoản 1, Điều 30 thì dịch vụ pháp lý khác của Luật sư bao gồm giúp đỡ khách hàng thực hiện công việc liên quan đến thủ tục hành chính; giúp đỡ về pháp luật trong trường hợp giải quyết khiếu nại; dịch thuật, xác nhận giấy tờ, các giao dịch và giúp đỡ khách hàng thực hiện công việc khác theo quy định của pháp luật. Việc quy định như hiện hành cũng gây nhiều tranh cãi khi áp dụng và thực tế. Việc sửa đổi theo hướng Quy định rõ nội hàm “dịch vụ pháp lý khác”, việc “xác nhận giấy tờ, các giao dịch và giúp đỡ khách hàng thực hiện công việc khác theo quy định của pháp luật” sẽ giúp cho quá trình thực hiện được thuận lợi hơn. Đồng thời, các Luật sư cũng nhận biết rõ hơn phạm vi công việc, dịch vụ của Luật sư được làm tránh có cách hiểu không thống nhất.

Thứ sáu, về hình thức tổ chức hành nghề Luật sư, điều kiện thành lập tổ chức hành nghề Luật sư, được quy định tại Điều 29 đã Quy định tổ chức hành nghề Luật sư Luật sư có thể có một hoặc nhiều người đại diện theo pháp luật điều này là phù hợp với Bộ luật Dân sự tại Điều 137 và Điều 12 của Luật Doanh nghiệp. Việc quy định như trên cũng phù hợp với thực tiễn quá trình phát triển của tổ chức hành nghề Luật sư, tạo điều kiện cho tổ chức hành nghề Luật sư có điều kiện phát triển tốt nhất.

Cắt giảm, đơn giản hóa điều kiện kinh doanh, bãi bỏ điều kiện của Luật sư khi thành lập tổ chức hành nghề Luật sư phải có ít nhất 02 năm kinh nghiệm hành nghề. Thực tế cho thấy, để trở thành Luật sư các Luật sư đã trải qua một quá trình từ việc học Đại học chuyên ngành luật thông thường thời gian này từ 3,5 năm đến 4 năm, học đào tạo nghề Luật sư 1 năm, tiếp đó là quá trình tập sự 1 năm và cuối cùng phải vượt qua kỳ thi hết tập sự hành nghề Luật sư mới có thể trở thành Luật sư. Chính vì vậy việc cắt giảm, đơn giản hóa điều kiện thành lập tổ chức hành nghề Luật sư phải có ít nhất 02 năm kinh nghiệm hành nghề là phù hợp với thực tế.

Kết luận

Sau 17 năm thực hiện, Luật Luật sư đã đi vào cuộc sống, đạt nhiều kết quả, tạo hành lang pháp lý cho tổ chức và hoạt động của Luật sư phát triển. Tuy nhiên, Luật Luật sư cũng đã bộc lộ một số hạn chế, bất cập, chưa phù hợp với thực tiễn phát triển nghề Luật sư.

Chính vì vậy cần sớm xem xét sửa đổi Luật Luật sư Hiện hành về những hạn chế bất cấp, giúp hoàn thiện những quy định của pháp luật về Luật Luật sư. Nhằm thúc đẩy Quá trình phát triển của Đội ngũ Luật sư cũng như thị trường pháp lý ngày càng minh bạch.

Tài liệu tham khảo

1. Luật Luật sư số 65/2006/QH11 ngày 29/6/2006 của Quốc hội (được sửa đổi, bổ sung bởi Luật số 20/2012/QH13 ngày 20/11/2012 của Quốc hội).

2.Thông tư Số: 10/2021/TT-BTP

3. Tạp chí Luật sư Việt Nam

4. https://moj.gov.vn/

5. Pháp lệnh Tổ chức Luật sư năm 1987

Luật sư VŨ DUY NAM

Đoàn Luật sư tỉnh Đồng Nai

Hoàn thiện quy định về yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập trong tố tụng dân sự

Nguyễn Hoàng Lâm