(LSVN) - Do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19, nợ xấu tại các tổ chức tín dụng (TCTD) đang ngày một tăng cao, ảnh hưởng đến nguy cơ an toàn hệ thống. Để có thể giảm thiểu và ngăn ngừa nợ xấu gia tăng, việc nghiên cứu và đưa ra các giải pháp để phòng ngừa rủi ro và xử lý nợ xấu không chỉ là mối quan tâm của các TCTD mà còn là yêu cầu cấp thiết của xã hội.
Thực trạng nợ xấu tại các tổ chức tín dụng
Nợ xấu (bad debt) được hiểu là các khoản nợ không có khả năng thanh toán, nợ tồn đọng dây dưa khó có thể thu hồi. Theo thông lệ quốc tế, nợ xấu là những khoản nợ quá hạn 90 ngày mà không đòi được và không được cơ cấu nợ. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến nợ xấu, trong đó bao gồm nguyên nhân từ phía khách hàng, nguyên nhân từ chính TCTD và các nguyên nhân khách quan như sự thay đổi trong chính sách vĩ mô của chính phủ, biến động chung của nền kinh tế thế giới, dịch bệnh, thiên tai, chiến tranh...
Hiện nay, trong bối cảnh dịch bệnh Covid-19 diễn biến phức tạp, sức ép nợ xấu đối với các TCTD đang ngày một tăng cao. Ảnh hưởng của dịch bệnh không chỉ tác động trực tiếp tới các đơn vị kinh doanh, mà còn gây ảnh hưởng đến hoạt động của các TCTD. Báo cáo lợi nhuận quý II/2020 cho thấy các TCTD đang “ngấm đòn” bởi dịch bệnh Covid-19[1]. Biểu hiện cụ thể là lợi nhuận sụt giảm, một phần do tín dụng tăng trưởng chậm chạp, trong khi các ngân hàng phải tăng trích lập dự phòng cho các khoản nợ xấu và nợ tiềm ẩn rủi ro từ các khoản vay của khách hàng đang gặp khó khăn bởi dịch bệnh Covid-19.
Theo Báo cáo bán niên năm 2020 của các ngân hàng cho thấy, tại thời điểm 30/6/2020, tổng nợ xấu của 19 ngân hàng là 92.615 tỷ đồng, tăng hơn 38,6% so với thời điểm đầu năm. Tổng nợ xấu của Vietcombank tăng 11% so với đầu năm, khiến tỷ lệ nợ xấu trên dư nợ cho vay tăng từ 0,79% lên 0,83%; trong đó, nợ dưới tiêu chuẩn tăng 58% và nợ nghi ngờ tăng 56%. Tương tự, tại thời điểm cuối tháng 6/2020, tổng nợ xấu của BIDV tăng 17% so với đầu năm; trong đó, nợ dưới tiêu chuẩn tăng 11%, nợ nghi ngờ tăng 21% và nợ có khả năng mất vốn tăng 17%, kéo tỷ lệ nợ xấu trên dư nợ vay tăng từ mức 1,75% lên 2%. Tổng nợ xấu của Sacombank đã tăng 17% so với đầu năm 2020, khiến tỷ lệ nợ xấu tăng từ mức 1,94% lên mức 2,15% vào cuối tháng 6/2020; trong đó, nợ dưới tiêu chuẩn tăng 190% và nợ nghi ngờ tăng 32%. Nhiều ngân hàng khác như Eximbank, Vietinbank, ACB… cũng phải chịu cảnh gia tăng nợ xấu tương tự.
Từ những con số trên, chúng ta có thể thấy dịch bệnh Covid-19 đã tác động tiêu cực lên hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp khiến nợ xấu tại các TCTD gia tăng, cho dù các nhà băng đã thực hiện các giải pháp hỗ trợ cho khách hàng bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh theo quy định tại Thông tư 01/2020/TT-NHNN ngày 13/3/2020 của Thống đốc Ngân hàng nhà nước về việc TCTD cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn giảm lãi phí, giữ nguyên nhóm nợ nhằm hỗ trợ cho khách hàng chịu ảnh hưởng do dịch Covid-19. Điều này cho thấy thực tế nợ xấu tại các TCTD hiện nay cao hơn nhiều con số công bố nêu trên, chưa kể các khoản nợ đã được TCTD xử lý bằng quỹ dự phòng rủi ro tín dụng và đang theo dõi tại ngoại bảng, mà TCTD vẫn có trách nhiệm phải thu hồi. Trước diễn biến phức tạp của dịch bệnh Covid -19 trên thế giới, nợ xấu tại các TCTD vẫn còn là ẩn số khó lường và có khả năng bùng phát nếu không có các biện pháp phòng ngừa rủi ro và xử lý nợ xấu hiệu quả, kịp thời.
Tổng quan về các biện pháp phòng ngừa rủi ro và xử lý nợ xấu của TCTD
Các biện pháp phòng ngừa rủi ro nợ xấu của tổ chức tín dụng
Luôn song hành với công tác tín dụng là công tác phòng ngừa rủi ro nợ xấu. Trong thời gian qua, để ngăn ngừa rủi ro nợ xấu, các TCTD thường áp dụng các biện pháp chủ yếu sau đây:
Thực hiện chính sách tín dụng phù hợp
Chính sách tín dụng bao gồm: chính sách khách hàng, chính sách quy mô và giới hạn tín dụng và chính sách lãi suất. Xây dựng và áp dụng chính sách tín dụng phù hợp giúp TCTD tăng cường chuyên môn hóa trong phân tích tín dụng, tạo sự thống nhất chung trong hoạt động tín dụng nhằm hạn chế rủi ro, và nâng cao khả năng sinh lời cho TCTD.
Nâng cao hiệu quả công tác thẩm định tín dụng, kiểm tra giám sát sau khi cấp tín dụng
Việc này nhằm đánh giá tính khả thi của dự án đầu tư, phương án sản xuất kinh doanh, phục vụ đời sống của khách hàng đề nghị vay vốn, đồng thời đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng, góp phần làm giảm thiểu rủi ro tín dụng. Sau khi cấp tín dụng, TCTD định kỳ hoặc đột xuất kiểm tra mục đích sử dụng vốn vay, tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh, hàng tồn kho luân chuyển của khách hàng để có giải pháp xử lý phù hợp.
Xếp hạng và chấm điểm tín dụng đối với khách hàng
Hệ thống xếp hạng và chấm điểm tín dụng phải được xây dựng phù hợp cho từng đối tượng khách hàng làm cơ sở cho việc xét duyệt cấp tín dụng, quản lý chất lượng tín dụng. Việc xếp hạng và chấm điểm tín dụng đối với khách hàng thực hiện theo các phương pháp: định tính, định lượng hoặc kết hợp. Trong các phương pháp này, phương pháp định tính tỏ ra ưu việt hơn vì phản ánh chính xác hơn tình trạng khách hàng và khoản nợ, đã được nhiều TCTD áp dụng.
Áp dụng các biện pháp bảo đảm tín dụng
Việc áp dụng các biện pháp bảo đảm tín dụng bằng tài sản nhằm phòng ngừa rủi ro, tạo thêm nguồn trả nợ thứ hai cho khoản nợ, tạo cơ sở kinh tế và pháp lý để thu hồi được các khoản nợ đã cho khách hàng vay. Trong thực tiễn, ngoài các khoản vay nhỏ phục vụ đời sống được cho vay tín chấp, còn lại hầu hết các khoản vay của TCTD đều được bảo đảm toàn bộ hoặc một phần.
Yêu cầu khách hàng mua bảo hiểm tín dụng
Biện pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng này được nhiều TCTD phối hợp với các đơn vị bảo hiểm áp dụng trong thời gian qua. Khi thực hiện biện pháp này, TCTD được lợi khi chia sẻ khoản phí bảo hiểm thu được từ khách hàng theo thỏa thuận với đơn vị bảo hiểm, đồng thời có nguồn trả nợ chắc chắn khi khách hàng gặp rủi ro. Theo đó, nếu khách hàng gặp các sự cố như: thất nghiệp, thương vong, không có thu nhập để trả nợ thì công ty bảo hiểm sẽ chi trả.
Trích lập và sử dụng quỹ dự phòng rủi ro
Hoạt động kinh doanh tiền tệ là lĩnh vực kinh doanh có nhiều rủi ro nhất. Do đó, việc lập quỹ dự phòng rủi ro nhằm bảo vệ người gửi tiền, giúp TCTD bảo toàn vốn kinh doanh, tạo nền tảng vững mạnh cho TCTD trong hoạt động của mình. Do có khoản mất vốn nên ngân hàng phải tìm kiếm nguồn bù đắp. Nguồn này được lấy từ quỹ phòng ngừa rủi ro của TCTD.
Các biện pháp xử lý nợ xấu của TCTD
Trong công tác xử lý thu hồi nợ xấu, các TCTD thường áp dụng một số biện pháp như sau:
Theo dõi đặc biệt: Tăng cường tần suất kiểm tra khách hàng/vốn vay, yêu cầu khách hàng báo cáo thường xuyên để nắm tình hình, kịp thời có giải pháp xử lý phù hợp
Tiếp tục cấp tín dụng với điều kiện chặt chẽ hơn: Tăng tỷ lệ bảo đảm, thay đổi phương thức cấp tín dụng theo hướng an toàn hơn, tăng cường kiểm soát vốn vay…
Hạn chế, giảm dần dư nợ: TCTD xác định lộ trình cụ thể để yêu cầu khách hàng giảm dần dư nợ về mức có khả năng chi trả.
Yêu cầu bổ sung, thay đổi biện pháp bảo đảm có mức an toàn cao hơn. Trong trường hợp này, muốn duy trì dư nợ, khách hàng phải đưa thêm tài sản bảo đảm hoặc sử dụng tài sản bảo đảm khác có giá trị lớn hơn tài sản ban đầu hoặc thay đổi từ cho vay tín chấp sang cho vay có thế chấp tài sản.
Dừng cấp tín dụng: Trong trường hợp này, TCTD dừng quan hệ tín dụng, yêu cầu khách hàng trả nợ và thực hiện các biện pháp thu hồi nợ nếu khách hàng không hoàn trả nợ trong thời gian đã thoả thuận tại hợp đồng tín dụng.
Miễn giảm lãi để hỗ trợ cho khách hàng, giúp khách hàng giảm nhẹ gánh nặng tài chính và thông qua đó khuyến khích khách hàng trả nợ.
Cấu trúc lại nợ: Cơ cấu lại thời hạn trả nợ, chuyển đổi đồng tiền nhận nợ, chuyển nợ thành vốn góp/vốn cổ phần và các giải pháp tài chính khác...
Thực hiện các biện pháp thanh lý: Xử lý tài sản bảo đảm (bao gồm cả việc thu giữ tài sản bảo đảm để xử lý), nhận tài sản bảo đảm để cấn trừ nợ, yêu cầu thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh của bên thứ ba, thực hiện bán nợ cho bên thứ ba.
Thực hiện thủ tục khởi kiện đối với các khách hàng và/hoặc bên bảo đảm không hợp tác, chây ỳ trong việc trả nợ hoặc không phối hợp trong việc xử lý tài sản bảo đảm.
Trong quá trình xử lý thu hồi nợ xấu, TCTD có thể áp dụng riêng lẻ một biện pháp hoặc đồng thời nhiều biện pháp nêu trên để đạt được hiệu quả thu hồi nợ cao nhất.
Các biện pháp phòng ngừa rủi ro và xử lý nợ xấu ngân hàng trong thời kỳ dịch bệnh Covid-19
Như trên đã nêu, nợ xấu phát sinh do ảnh hưởng bởi dịch bệnh Covid-19 mang tính khách quan, nằm ngoài tầm kiểm soát của doanh nghiệp cũng như TCTD. Do đó, giải pháp tổng thể mà Chính phủ đang áp dụng là tháo gỡ khó khăn cho người dân và doanh nghiệp, thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công, bảo đảm trật tự an toàn xã hội để duy trì đà tăng trưởng của nền kinh tế. Đến nay, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản để thực hiện chủ trương trên, như Nghị quyết 42/NQ-CP ngày 09/4/2020 của Chính phủ về các biện pháp hỗ trợ cho người dân gặp khó khăn do đại dịch Covid-19; Nghị quyết 84/NQ-CP ngày 29/5/2020 của Chính phủ về các nhiệm vụ, giải pháp tiếp tục tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công và bảo đảm trật tự an toàn xã hội trong bối cảnh dịch Covid-19; Quyết định số 15/2020/QĐ-TTg ngày 24/4/2020 của Thủ tướng Chính phủ về việc thực hiện các chính sách hỗ trợ người dân gặp khó khăn do đại dịch Covid-19... Theo đó, người dân, doanh nghiệp được hưởng những hỗ trợ trực tiếp hoặc gián tiếp như: giảm tiền thuê đất phải nộp của năm 2020; giảm lãi suất cho vay; có thêm cơ hội kinh doanh, việc làm khi Nhà nước đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công, thu hút vốn đầu tư toàn xã hội; cải cách thủ tục hành chính đơn giản, thuận lợi hơn; được cắt giảm các đợt thanh tra, kiểm tra không cần thiết.
Thông tư số 01/2020/TT-NHNN ngày 13/3/2020 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước cũng quy định cụ thể về đối tượng được TCTD cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn giảm lãi, phí, giữ nguyên nhóm nợ nhằm hỗ trợ khách hàng chịu ảnh hưởng do dịch bệnh Covid-19; nhìn chung đó là các khách hàng phát sinh nghĩa vụ trả nợ gốc, lãi trong thời gian Thủ tướng Chính phủ công bố dịch bệnh Covid-19, hoặc khách hàng không có khả năng trả nợ đúng hạn nợ gốc và/hoặc lãi do doanh thu, thu nhập sụt giảm bởi dịch bệnh Covid-19.
Như vậy, biện pháp chung là TCTD chia sẻ khó khăn, hỗ trợ đồng hành cùng người dân, doanh nghiệp thông qua việc cắt giảm thu nhập từ lãi, phí, hỗ trợ người dân, doanh nghiệp chịu ảnh hưởng bởi dịch bệnh Covid-19 từng bước phục hồi, trở lại hoạt động kinh doanh bình thường.
Trong bối cảnh dịch bệnh Covid-19, để bảo đảm cho an toàn hoạt động tín dụng, hạn chế nợ xấu phát sinh, TCTD cần thực hiện đồng bộ các giải pháp sau đây:
Sửa đổi chính sách tín dụng phù hợp với tình hình dịch bệnh Covid-19
Các TCTD cần tập trung vào việc cho vay các ngành then chốt, thiết yếu phục vụ đời sống xã hội. Triển khai các gói tín dụng với lãi suất hợp lý, thủ tục đơn giản và phù hợp với quy định của pháp luật. Đồng thời, kiểm soát chặt chẽ tín dụng đối với lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro, như: tín dụng đầu tư, kinh doanh bất động sản, chứng khoán, BOT, BT giao thông; hoặc cấp tín dụng để góp vốn, mua cổ phần và đầu tư trái phiếu doanh nghiệp…
Tăng cường kiểm soát chất lượng tín dụng
Bên cạnh việc đồng hành cùng người dân, doanh nghiệp thông qua các chính sách hỗ trợ theo quy định của pháp luật, các TCTD kiên quyết không được hạ chuẩn tín dụng hay nới lỏng các điều kiện cho vay, bởi nếu chạy theo mục tiêu thu lãi thuần trong ngắn hạn sẽ tiềm ẩn nợ xấu về sau. Đây cũng là thời điểm phù hợp để TCTD sàng lọc lại danh mục khách hàng của mình để lựa chọn những khách hàng thiện chí, trung thực và có tình hình tài chính lành mạnh.
Ban hành quy định nội bộ về cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, phí, giữ nguyên nhóm nợ đối với khách hàng chịu ảnh hưởng bởi dịch bệnh Covid-19
Theo quy định tại Thông tư số 01/2020/TT-NHNN nêu trên, các TCTD cần xây dựng quy định nội bộ để thực hiện thống nhất trong toàn hệ thống, trong đó quy định cụ thể về: (i) tiêu chí xác định số dư nợ của khách hàng bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19; (ii) trình tự, thủ tục, phân công, phân cấp, nhiệm vụ, trách nhiệm của từng cá nhân, bộ phận trong việc thực hiện cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, phí, giữ nguyên nhóm nợ bảo đảm nguyên tắc cá nhân, bộ phận quyết định cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, phí, giữ nguyên nhóm nợ không là cá nhân, bộ phận phê duyệt cấp tín dụng; (iii) tần suất rà soát, đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng sau khi được cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, phí, giữ nguyên nhóm nợ theo quy định pháp luật; theo dõi, kiểm tra, kiểm soát, giám sát đối với việc cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, phí và số dư nợ được cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, giữ nguyên nhóm nợ.
Tăng cường kiểm tra, kiểm soát nội bộ về chất lượng tín dụng
TCTD cần thường xuyên kiểm tra, giám sát việc triển khai thực hiện của tất cả các chi nhánh trong hệ thống để bảo đảm việc cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, phí, giữ nguyên nhóm nợ đúng quy định và hiệu quả. Thực hiện giám sát chặt chẽ, an toàn, phòng ngừa, ngăn chặn việc cán bộ lợi dụng cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, phí, giữ nguyên nhóm nợ để trục lợi, phản ánh sai lệch chất lượng tín dụng.
Tiếp tục thực hiện cơ cấu lại TCTD gắn với xử lý nợ xấu
Các TCTD cần triển khai quyết liệt, hiệu quả Đề án “Cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn liền với xử lý nợ xấu giai đoạn 2016-2020” đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt theo Quyết định 1058/QĐ-TTg ngày 19/7/2017 (Đề án 1058). Theo đó, nhóm giải pháp xử lý nợ mà các TCTD cần thực hiện bao gồm: đánh giá lại chất lượng và khả năng thu hồi của các khoản nợ để có biện pháp xử lý thích hợp; tăng cường trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro để xử lý nợ xấu; tiếp tục cơ cấu lại nợ, hỗ trợ vốn để khách hàng khắc phục khó khăn và phục hồi; bổ sung, hoàn thiện hồ sơ pháp lý tài sản bảo đảm; thu nợ và xử lý tài sản bảo đảm; kiểm soát chặt chẽ và giảm chi phí hoạt động; hạn chế tối đa nợ xấu phát sinh trong tương lai.
Một số kiến nghị, đề xuất
Để nâng cao hiệu quả các biện phòng phòng ngừa rủi ro và xử lý nợ xấu nói chung và trong giai đoạn bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19 nói riêng, người viết đề xuất một số kiến nghị như sau:
Một là, xem xét ban hành đạo luật về xử lý nợ xấu
Thời gian qua môi trường pháp lý cho hoạt động ngân hàng không ngừng được hoàn thiện, như việc Quốc hội ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các TCTD năm 2017, Luật Doanh nghiệp năm 2020, Luật Đầu tư năm 2020.... Các đạo luật này tạo hành lang pháp lý thông thoáng cho các hoạt động kinh doanh, thu hút vốn đầu tư đồng bộ, hiệu quả và phù hợp với thông lệ quốc tế. Trong lĩnh vực xử lý nợ xấu, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 42/2017/QH14 ngày 21/6/2017 về thí điểm xử lý nợ xấu của các TCTD (Nghị quyết 42). Theo đánh giá của Ngân hàng Nhà nước, sau 3 năm triển khai thực hiện Nghị quyết 42, số khách hàng trả nợ chiếm 40,8% xử lý nợ xấu nội bảng, cao hơn nhiều giai đoạn 2012-2017. Đây là dấu hiệu tích cực cho thấy Nghị quyết 42 đã và đang phát huy hiệu quả, góp phần tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc và đẩy mạnh công tác xử lý nợ xấu của hệ thống các TCTD. Tuy nhiên, Nghị quyết 42 chỉ mang tính thí điểm, được thực hiện trong thời hạn 5 năm (đến tháng 6/2022). Mặt khác, quá trình thực hiện Nghị quyết 42 cũng có một số hạn chế do biện pháp thu giữ tài sản bảo đảm chỉ được thực hiện nếu các bên có thỏa thuận về việc TCTD được thu giữ tài sản bảo đảm để xử lý; điều này dẫn đến nhiều TCTD không thể thực hiện thu giữ tài sản bảo đảm để xử lý đối với các khoản nợ phát sinh từ trước ngày ban hành Nghị quyết 42. Do đó, trên cơ sở tổng kết tình hình thực hiện Nghị quyết 42 và các biện pháp xử lý nợ trong thời gian qua để sớm ban hành một đạo luật riêng về phòng ngừa rủi ro và xử lý nợ xấu của TCTD; nếu làm được như vậy thì công tác xử lý nợ được thuận lợi, tránh việc thất thoát lãng phí nguồn lực do việc xử lý nợ chậm chễ gây ra.
Hai là, cần sớm ban hành Đề án xử lý nợ xấu cho giai đoạn 2021-2025
Trong thời gian qua, Ngân hàng Nhà nước đã chỉ đạo sát sao các TCTD trong việc thực hiện Đề án 1058 của Thủ tướng Chính phủ về “Cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn liền với xử lý nợ xấu giai đoạn 2016-2020”. Kết quả thực hiện Đề án 1058 cho thấy việc thực hiện biện pháp xử lý nợ xấu cần thực hiện đồng bộ và sự vào cuộc của toàn bộ hệ thống chính trị. Do đó, trước bối cảnh dịch bệnh Covid-19, để toàn hệ thống chính trị tiếp tục phối hợp đồng bộ trong việc thực hiện các giải pháp xử lý nợ xấu, Chính phủ cần sớm ban hành Đề án “Cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn liền với xử lý nợ xấu giai đoạn 2021-2025” với các mục tiêu và giải pháp đồng bộ để các cấp, các ngành tiếp tục hỗ trợ hệ thống các TCTD trong việc xử lý nợ xấu trong tình hình mới.
Ba là, phát triển thị trường mua bán nợ xấu, thu hút nguồn lực đầu tư vào lĩnh vực này
Sau khi Chính phủ ban hành Nghị định số 69/2016/NĐ-CP ngày 1/7/2016 về điều kiện kinh doanh dịch vụ mua bán nợ, đã có cơ sở pháp lý để các chủ thể tham gia thị trường mua bán nợ cũng như thành lập sàn giao dịch nợ. Tuy nhiên, đến nay thị trường này vẫn thiếu vắng các chủ thể tham gia, chưa có công cụ định giá nợ hiệu quả và chưa thành lập được sàn giao dịch nợ đúng nghĩa; do đó, hoạt động mua bán nợ xấu hiện tại của TCTD chỉ dừng ở mức đơn lẻ theo từng khoản nợ cụ thể với đối tượng mua nợ hạn chế.
Tóm lại, sự tác động của đại dịch Covid-19 ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống người dân, tình hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, gây áp lực nợ xấu cho các TCTD. Để phòng ngừa rủi ro và xử lý nợ nợ xấu, một mặt các TCTD cần bám sát chỉ đạo của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước trong việc hỗ trợ người dân, doanh nghiệp; mặt khác cần vận dụng linh hoạt các quy định của pháp luật về xử lý nợ xấu. Bên cạnh đó, không thể thiếu việc tiếp tục hoàn thành hệ thống pháp luật và sự đồng hành, vào cuộc cả hệ thống chính trị đối với công tác này.
__________________________ [1] Đề án “Cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn liền với xử lý nợ xấu giai đoạn 2016-2020” của Thủ tướng Chính phủ ban hành theo Quyết định 15. |
Tiến sĩ, Luật sư NGUYỄN THÀNH NAM Giám đốc Công ty Luật Gattaca |