Ảnh minh họa.
Quyền tư pháp - tiếp cận quyền lực
Quyền tư pháp, trước hết phải được tiếp cận từ phương diện quyền lực. Tiếp cận quyền tư pháp từ phương diện quyền lực cần được chú ý trong thời gian tới trong xây dựng nhà nước pháp quyền nói chung và trong cải cách tư pháp nói riêng. Tiếp cận từ phương diện này để đi đến khẳng định tính quyền lực nhà nước của nó, từ đó cải cách để tăng cường hiệu lực, hiệu quả của nó với tư cách quyền lực, để xác định mối quan hệ của nó với quyền lập pháp, hành pháp, để thấy được bản chất, nguyên tắc vận hành của nó trong cơ chế thực hiện quyền lực nhà nước. Bởi lẽ, nếu quyền hành pháp vận hành hướng tới mục tiêu quản lý thì quyền tư pháp hướng tới mục tiêu bảo đảm và bảo vệ công lý. Tiếp cận quyền lực sẽ giúp làm rõ hơn vấn đề vị trí của quyền tư pháp trong cơ chế phân công, phối hợp và đặc biệt là kiểm soát quyền lực nhà nước ở nước ta hiện nay.
Từ phương diện quyền lực, quyền tư pháp được hiểu là khả năng và năng lực riêng có của Tòa án trong việc thực hiện thẩm quyền xét xử và các thẩm quyền khác theo phương thức nhất định để tác động đến hành vi của con người và các quá trình phát triển xã hội [1].
Nội dung của quyền tư pháp bao gồm các thẩm quyền xét xử các loại vụ việc: xét xử (hình sự, dân sự, hành chính, kinh tế, lao động, hôn nhân và gia đình,…); phán quyết về các tranh chấp, xung đột trong xã hội; giải thích pháp luật; tổng kết thực tiễn xét xử và hướng dẫn áp dụng pháp luật; xây dựng và phát triển án lệ; kiểm tra tính hợp pháp và tính có căn cứ của các quyết định và hoạt động của các cơ quan nhà nước và của những người có chức vụ, quyền hạn; bảo đảm việc thi hành và chấp hành các bản án, các quyết định khác. Ngoài ra, xu thế chung quyền tư pháp là mở rộng nội dung của nó bao gồm các quyền: xử lý vi phạm hành chính; xem xét đề nghị của cơ quan quản lý nhà nước và quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính liên quan đến quyền con người; quyền cơ bản của công dân theo quy định của pháp luật [2]; quyền kiểm tra, hoặc hủy bỏ việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế nhà nước hạn chế quyền con người, quyền công dân; quyền giải thích hiến pháp và bảo vệ Hiến pháp; quyền kiểm soát các quyền còn lại. Bên cạnh đó, quyền tư pháp còn bao gồm quyền thực hiện việc kiểm tra tính hợp pháp và tính có căn cứ trong các hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp luật, có trách nhiệm phát hiện và điều tra tội phạm, mà trước hết là trong các trường hợp khi có sự hạn chế các công dân thực hiện các quyền và tự do của họ [3]. Các thẩm quyền trên có tính độc lập tương đối, có mối liên hệ, tương tác, bổ sung cho nhau, tạo thành quyền tư pháp.
Vấn đề tiếp theo cần lý giải tại sao những nội dung trên lại thuộc nội dung của quyền tư pháp?
Nhóm thẩm quyền thứ nhất: Quyền xét xử các tranh chấp trong xã hội theo nghĩa rộng thì không có tranh cãi nhiều, trên thế giới cũng như ở Việt Nam. Bởi đây là thẩm quyền mang tính chất kinh điển của quyền tư pháp. Vấn đề này cần bắt đầu từ khái niệm xét xử. Theo đó, xét xử, phân định đúng sai, tìm ra chân lý, bảo vệ chân lý và công lý xã hội nhằm bảo đảm sự công bằng, lẽ phải cho mọi cá nhân, tổ chức. Để làm được điều này cần có một loại quyền lực, một hệ thống cơ quan độc lập với thủ tục chặt chẽ của luật pháp về thủ tục trong tố tụng như về chứng cứ, về thời hạn, về tính công bằng, độ chính xác của các quyết định, bản án. Việc xét xử của Tòa án phải tuân theo các nguyên tắc dân chủ, không thể thay thế như: bảo đảm quyền con người, quyền công dân; xét xử công khai; quyền bào chữa của bị cáo.
Nhóm thẩm quyền thứ hai: Quyền giải thích pháp luật; tổng kết thực tiễn xét xử và hướng dẫn áp dụng pháp luật; xây dựng và phát triển án lệ. Đây có thể nói là quyền phái sinh từ quyền xét xử. Quyền giải thích pháp luật, phát triển án lệ thuộc nội dung của quyền tư pháp xuất phát từ lý do so với các quyền lực khác, quyền tư pháp có tính độc lập cao hơn. Sự độc lập này là cần thiết vì pháp luật là gắn liền với công lý. Quyền tư pháp được thực hiện với tư cách là trọng tài sẽ có sự giải thích pháp luật công bằng, hợp lý nhất. Bên cạnh đó, những quy phạm pháp luật cần có sự giải thích là những quy phạm khó hiểu đối với những người bình thường; muốn làm rõ nội dung, tư tưởng của quy phạm đó phải có chuyên môn. Chỉ có Tòa án với các thẩm phán được đào tạo chuyên nghiệp và kinh nghiệm lâu năm trong lĩnh vực công tác pháp luật là thích hợp nhất với yêu cầu này. Lý do tiếp theo, chân lý luôn mang tính cụ thể nên giải thích pháp luật thường phát sinh từ một vụ việc xảy ra trên thực tế mà các quy phạm trước đó chưa quy định hoặc quy định chưa rõ, chưa cụ thể. Chính Tòa án là cơ quan thường gặp các vụ việc này nhất. Nếu Tòa án không có chức năng giải thích pháp luật trong trường hợp này thì quyền lợi của công dân lại phải chờ đợi lơ lửng từ sự giải thích từ các chủ thể khác. Ngoài ra, việc giải thích pháp luật có thể dẫn đến hiện tượng lạm quyền, cắt xén, hạn chế các quyền tự do của công dân. So với các cơ quan lập pháp, hành pháp thì Tòa án ít có nguy cơ lạm quyền nhất.
Nhóm thẩm quyền thứ ba: Quyền kiểm tra tính hợp pháp và tính có căn cứ của các quyết định và hoạt động của các cơ quan nhà nước và của những người có chức vụ, quyền hạn. Điều này xuất phát từ nội dung, bản chất của hoạt động quản lý nhà nước rộng hơn là thực hiện quyền hành pháp. Theo đó, để thực hiện quản lý nhà nước, các cơ quan, người có thẩm quyền phải ban hành các quyết định quản lý nhà nước hay thực hiện các hành vi hành chính. Không phải trong mọi trường hợp, các quyết định, hành vi hành chính này đều đúng pháp luật và có sự đồng thuận của người dân. Việc phát sinh tranh chấp xung quanh tính hợp pháp của các quyết định, hành vi hành chính là khách quan kéo theo nhu cầu giải quyết các tranh chấp đó. Giải quyết tranh chấp này có thể bằng cơ chế khiếu nại hành chính theo thủ tục hành chính. Tuy nhiên, bên cạnh tính tích cực, cơ chế khiếu nại bộc lộ những hạn chế như không khách quan, không minh bạch và đặc biệt ở Việt Nam là sự quá tải của hoạt động giải quyết khiếu nại hành chính gây nhiều hậu quả tiêu cực về chính trị cũng như xã hội, ảnh hưởng đến quyền lợi của người dân. Điều đó, khiến người ta nhận thấy cần có cơ chế tư pháp với ưu điểm minh bạch, khách quan, độc lập để giải quyết các tranh chấp liên quan đến tính hợp pháp các quyết định hành chính, hành vi hành chính. Cơ chế này không những tạo cho người dân một cơ chế thứ hai bảo vệ quyền lợi của mình mà còn đặt các quyết định hành chính, hành vi hành chính dưới sự kiểm soát của Tòa án, bảo đảm tính hợp pháp của nó.
Nhóm thẩm quyền thứ tư: Quyền xử lý vi phạm hành chính; xem xét đề nghị của cơ quan quản lý nhà nước và quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính liên quan đến quyền con người; quyền cơ bản của công dân theo quy định của pháp luật; quyền thực hiện việc kiểm tra tính hợp pháp và tính có căn cứ trong các hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp luật, có trách nhiệm phát hiện và điều tra tội phạm, mà trước hết là trong các trường hợp khi có sự hạn chế các công dân thực hiện các quyền và tự do của họ.
Nhóm quyền thứ năm: Bên cạnh những thẩm quyền quen thuộc của tư pháp, khoa học và thực tiễn thế giới đã thừa nhận thẩm quyền bảo hiến của tư pháp là hợp lý nhất. Bảo hiến là cơ chế bảo vệ hiến pháp, trong đó cơ chế bảo hiến bằng tư pháp được thừa nhận và áp dụng phổ biến trong thực tế, đó chính là hoạt động của các Tòa án hiến pháp. Các nghiên cứu thời gian qua tập trung lý giải sự cần thiết tồn tại của cơ chế bảo hiến như là điều tất yếu của nhà nước pháp quyền. Tuy nhiên, vấn đề ở chỗ cần đặt cơ chế bảo hiến bằng tư pháp trong bối cảnh Việt Nam với những những đặc trưng về chính trị, xã hội như: bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất… để từ đó xác định có tính chất nguyên tắc thẩm quyền, tổ chức… của cơ chế bảo vệ Hiến pháp ở Việt Nam bằng Tòa án [4].
Chúng tôi cho rằng, quan niệm về nội dung của quyền tư pháp rộng như vậy là phù hợp với xu thế chung của thế giới, nhấn mạnh được chức năng xã hội của quyền tư pháp, đồng thời sẽ tăng cường khả năng kiểm soát quyền lực của quyền tư pháp trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của chúng ta, phù hợp quan điểm chỉ đạo của Đảng nói chung và Văn kiện Đại hội XIII nói riêng về xây dựng nhà nước pháp quyền là: “Xác định rõ hơn vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp trên cơ sở các nguyên tắc pháp quyền, bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và tăng cường kiểm soát quyền lực nhà nước” [5]. Bên cạnh đó, nó cụ thể hóa Hiến pháp năm 2013 (khoản 2 Điều 2) về quyền tư pháp và kiểm soát quyền lực trong cơ chế: quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Một đặc điểm có tính quy luật đã được chứng minh: từ phương diện kiểm soát quyền lực công trong nước, tư pháp non yếu thì hành pháp lạm quyền, quan chức có nhiều cơ hội lạm dụng quyền lực công mà không bị truy hỏi về trách nhiệm chính trị cũng như pháp lý trước người dân [6].
Nếu chỉ quan niệm hẹp về quyền tư pháp thì rõ ràng quyền tư pháp sẽ không đủ khả năng thực hiện nhiệm vụ kiểm soát quyền lực bởi lẽ: trong nhà nước pháp quyền, quyền tư pháp quan trọng và đầy trọng trách không kém các chức năng do các quyền khác đảm nhiệm. Điều đó cho phép đưa ra kết luận về tính cùng ý nghĩa, về tính bình quyền và tính đồng đẳng của tất cả các phạm vi, lĩnh vực quyền lực Nhà nước [7].
Quyền tư pháp - cách tiếp cận giá trị
Về mục tiêu của cải cách tư pháp, Văn kiện Đại hội XIII chỉ đạo: “Xây dựng nền tư pháp Việt Nam chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Hoạt động tư pháp có trọng trách bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân" [8]. Trong chỉ đạo này hàm chứa những nội dung của giá trị pháp quyền của quyền tư pháp như: Công bằng, công lý, quyền con người. Chính vì vậy, để thực hiện mục tiêu này, nếu chỉ tiếp cận khái niệm quyền tư pháp ở phương diện quyền lực thì chưa đủ mà cần tiếp cận nó từ phương diện giá trị pháp quyền. Quá trình hình thành và xây dựng xã hội pháp quyền Việt Nam đòi hỏi phải tiếp tục đẩy mạnh cải cách tư pháp. Xã hội pháp quyền [9] là xã hội hướng đến các giá trị pháp quyền, trong đó có các giá trị như: công lý, công bằng, tự do, nhân đạo, pháp quyền, quyền con người trong xã hội. Các giá trị đó ngày càng được gia tăng trong quá trình dân chủ hóa, công khai hóa, minh bạch hóa, pháp quyền hóa, nhân quyền hóa trong xã hội. Xã hội pháp quyền là xã hội coi tư pháp là một thành tố đặc biệt quan trọng, là thể chế phòng ngừa sự vi phạm quyền con người, bảo đảm, bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người trong xã hội.
Quyền tư pháp, thực hiện quyền tư pháp được hình thành và phát triển trong suốt chiều dài lịch sử phát triển của xã hội loài người, nhưng chỉ đến một giai đoạn phát triển nhất định của xã hội loài người nó mới trở thành một giá trị độc lập trong xã hội - giá trị pháp quyền. Sự ra đời của giá trị đó đánh dấu một bước phát triển mới của tư pháp trên tất cả các chiều cạnh của nó, đặc biệt tư duy về vị thế của tư pháp (quyền tư pháp, Tòa án, thẩm phán) trong xã hội, trong cơ chế quyền lực chính trị, cơ chế quyền lực nhà nước. Tiếp đến, quyền tư pháp, thực hiện quyền tư pháp gắn liền với các giá trị cao cả trong xã hội, đó là công lý, công bằng, pháp quyền, quyền con người, quyền công dân, chế độ xã hội, các lợi ích hợp pháp, trật tự pháp luật và các giá trị xã hội khác. Đó là các giá trị pháp quyền cốt lõi của xã hội đương đại, của xã hội loài người. Hiện thân của người thực hiện quyền tư pháp, của công lý, của người bảo vệ quyền con người, quyền công dân và các giá trị nói trên là Tòa án.
Cách tiếp cận này đòi hỏi phải xây dựng Tòa án trở thành thiết chế có năng lực, khả năng hiện thực để thực hiện quyền tư pháp một cách hiệu quả, hiệu lực cao nhằm bảo vệ các giá trị pháp quyền cốt lõi của xã hội, là hiện thân của công lý, công bằng, lẽ phải, bảo vệ pháp luật, là trung tâm của thực hiện quyền tư pháp; thẩm phán là một loại công chức đặc biệt, một nghề đặc biệt, cao cả, có danh tiếng, được xã hội tôn trọng, tôn vinh.
Quyền tư pháp - tiếp cận từ phương diện giá trị kinh tế, xã hội
Cách tiếp cận này đáp ứng các yêu cầu của Văn kiện Đại hội XIII về cải cách tư pháp, đó là: “Tiếp tục đổi mới tổ chức, nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động và uy tín của Tòa án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân, cơ quan điều tra, cơ quan thi hành án và các cơ quan, tổ chức tham gia vào quá trình tố tụng tư pháp” [10]. “Nâng cao hiệu quả và rút ngắn thời gian giải quyết tranh chấp, thi hành án trong lĩnh vực dân sự, hành chính, đầu tư, kinh doanh, thương mại và bảo vệ người tiêu dùng” [11]. “Không hình sự hóa các mối quan hệ kinh tế, hành chính, dân sự. Phát huy đúng vai trò giám sát, phản biện xã hội các hình thức tự quản của cộng đồng, các phương thức hòa giải cấp cơ sở” [12]. Nếu chỉ tiếp cận quyền lực về quyền tư pháp thì sẽ không giải quyết được mục đích và nhiệm vụ trên.
Tiếp cận quyền tư pháp từ giá trị kinh tế
Thứ nhất, giá trị kinh tế của quyền lực tư pháp thể hiện ở việc thực hiện quyền tư pháp có ý nghĩa quan trọng đối với xây dựng, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay. Kinh tế thị trường làm phát sinh tranh chấp trong các quan hệ kinh tế. Việc thực hiện quyền tư pháp bảo đảm, bảo vệ sở hữu tài sản, quyền tự do kinh doanh của người dân, lành mạnh các quan hệ kinh tế, qua đó thúc đẩy sự phát triển của kinh tế. Với ý nghĩa như vậy, cải cách tư pháp cần chú trọng đến cải cách pháp luật nội dung. Đó là nền tảng cho thực hiện việc giải quyết các tranh chấp bằng tư pháp. Cải cách tư pháp phải chú trọng nhiều hơn nữa thủ tục tư pháp trong lĩnh vực dân sự, kinh tế so với Nghị quyết số 49/NQ-TW, bởi Nghị quyết này được đánh giá là chú trọng nhiều đến lĩnh vực tư pháp hình sự. Thậm chí, cần coi cải cách tư pháp trong lĩnh vực dân sự, kinh tế là một thành tố của thể chế kinh tế thị trường ở Việt Nam. Bên cạnh đó, trong lĩnh vực kinh tế, dân sự, tiếp cận giá trị kinh tế của quyền tư pháp sẽ giúp tiết kiệm chi phí giao dịch cho người dân, doanh nghiệp trong tiếp cận công lý, từ đó giải quyết yêu cầu của cải cách tư pháp là đa dạng hóa các cơ chế giải quyết tranh chấp kinh tế, dân sự, đơn giản hóa thủ tục tố tụng tư pháp, mở rộng cung dịch vụ của Tòa án, như: giải quyết tranh chấp bằng hòa giải, đối thoại tại Tòa án, các thủ tục rút gọn, thích ứng xu hướng đoán định tư pháp (predictive justice) [13].
Thứ hai, trong lĩnh vực hình sự, giá trị kinh tế của quyền tư pháp còn thể hiện chi tiêu dành cho trợ giúp pháp lý sẽ được tính toán và xem xét các lợi ích xã hội và những tiết kiệm về kinh tế mà các dịch vụ đó mang lại, ngoài tác động tích cực của chúng đối với quyền của các cá nhân và gia đình của họ. Một số lợi ích có thể dễ dàng định lượng, chẳng hạn như các khoản tiết giảm chi phí cho hệ thống trại giam vì có ít người cần phải tạm giam trước khi xét xử [14].
Tiếp cận quyền tư pháp từ giá trị xã hội của quyền tư pháp thể hiện ở sự thừa nhận Tòa án bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, bảo vệ giá trị tốt đẹp về đạo đức xã hội. Nhấn mạnh giá trị này đòi hỏi trong cải cách tư pháp cần nâng cao uy tín của Tòa án đối với xã hội. Nâng cao uy tín của Tòa án có thể coi là một trong những vấn đề đột phá của cải cách tư pháp. Một vấn đề có tính quy luật là trong xã hội không thể tránh khỏi xung đột, tranh chấp. Mọi tranh chấp trong đời sống xã hội, kể cả tranh chấp quyền lực bao giờ cũng làm phát sinh nhu cầu cần có thiết chế phán xét đúng sai và áp dụng trách nhiệm pháp lý. Thiết chế văn minh nhất đáp ứng nhu cầu đó ở đâu và bao giờ vẫn là hệ thống Tòa án. Tòa án chỉ hoàn thành sứ mệnh đó của mình khi nó có đủ uy tín được xây dựng trên cơ sở niềm tin của nhân dân [15]. Hạn chế cũng như thành công của bất kỳ hệ thống tư pháp nào cũng bắt đầu từ uy tín của nó đối với xã hội. Uy tín thì cơ quan nhà nước nào cũng cần nhưng với chức năng thực hiện quyền tư pháp, bảo vệ công lý trong nhà nước pháp quyền thì uy tín của hệ thống Tòa án và cả hệ thống tư pháp càng đặc biệt quan trọng. Bởi lẽ Tòa án chỉ bảo vệ công lý khi nó có được niềm tin từ nhân dân. Uy tín, niềm tin của Tòa án sẽ giải quyết vấn đề có thể xảy ra trong tư pháp ở các quốc gia đó là “án đụng trần”. Án đụng trần xảy ra khi một vụ án đã đi đến thủ tục cuối cùng của tố tụng đó là phiên họp giám đốc thẩm, tái thẩm của thiết chế xét xử cao nhất của quốc gia vẫn bị có ý kiến khác nhau thì tình trạng của vụ án sẽ như thế nào. Khi xã hội đã đặt niềm tin vào cơ quan xét xử cao nhất, nếu có sai thì xã hội phải chịu rủi ro và tìm cơ chế khác để khắc phục mà không thể phá vỡ nguyên lý độc lập xét xử của Tòa án và công lý phải có điểm dừng. Điều đó cho thấy uy tín để từ đó có niềm tin của xã hội đối với Tòa án là rất quan trọng, nó là nút thắt để giải quyết thế kẹt của án đụng trần [16]. Để có niềm tin thì đặt ra các yêu cầu liêm chính, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, nâng cao hiệu lực và hiệu quả của công tác tư pháp. Uy tín của Tòa án còn có thể lý giải từ bản thân nó. Tòa án là thiết chế quyền lực nhà nước, song bên cạnh đó nó mang tính “thiêng” từ công lý - cái mà Tòa án là biểu tượng và thể hiện sự tập trung nhất. Tính “linh thiêng” đó bắt nguồn từ niềm tin, và niềm tin phải dựa trên uy tín. Uy tín của Tòa án tạo lập bằng nhận thức đúng đắn về chức năng của Tòa án trong nhà nước pháp quyền, bằng cách thức tổ chức thực hiện quyền tư pháp của Tòa án, bằng sự liêm chính của thẩm phán, bằng sự đánh giá, cảm nhận về công lý của xã hội đối với nhiệm vụ bảo vệ công lý của Tòa án.
Kết luận
Quyền tư pháp trong nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa cần được tiếp cận từ nhiều phương diện khác nhau. Có như vậy mới xác định được nội dung đặc biệt là các giá trị của quyền tư pháp để đi đến khẳng định đây là một quyền lực độc lập bên cạnh các quyền lực hành pháp và lập pháp. Chỉ khi xác định rõ nội dung, giá trị của quyền tư pháp mới tổ chức quyền này bảo đảm vị trí của nó trong cơ chế phân công, phối hợp và đặc biệt là kiểm soát quyền lực trong nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
[1] Võ Khánh Vinh, Về quyền tư pháp và chế độ tư pháp ở Việt Nam, https://tapchitoaan.vn/ve-quyen-tu-phap-va-che-do-tu-phap-o-nuoc-ta [2] Trước năm 2013, việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thuộc thẩm quyền của cơ quan hành chính bằng thủ tục hành chính. Sau năm 2013, biện pháp pháp này được giao cho Tòa án nhân dân cấp huyện bằng thủ tục tư pháp. [3] Trong giai đoạn tới, với xu hướng này, cần nghiên cứu giao cho Tòa án quyền kiểm tra tính hợp pháp và tính có căn cứ của việc bắt giữ những người bị tình nghi thực hiện tội phạm, bị tạm giữ, tạm giam, trong việc gia hạn thời hạn tạm giữ, tạm giam trong việc thực hiện các hành vi liên quan đến việc hạn chế quyền bí mật thư tín, điện tín cũng như quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở, tính hợp pháp của việc đình chỉ vụ án hình sự... Chỉ với việc quy định như vậy mới thể hiện được đầy đủ bán chất và nội dung của quyền tư pháp. [4] Vấn đề này, Văn kiện Đại hội XIII đã chỉ rõ: Tiếp tục đổi mới quy trình lập pháp, tập trung xây dựng, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân; hoàn thiện cơ chế bảo vệ Hiến pháp, cơ chế giám sát, lấy phiếu, bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người giữ chức vụ do Quốc hội, hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn. [5] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII (tập 2), Nxb Chính trị Quốc gia Sự thật, 2021, tr.174,175. [6] Bùi Nguyên Khánh, Cơ sở pháp lý bảo đảm sự độc lập xét xử của tòa án trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền và hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay, Báo cáo tổng hợp đề tài cấp Bộ, Viện Nhà nước và Pháp luật 2013, tr. 137. [7] Võ Khánh Vinh, Giáo trình các cơ quan bảo vệ pháp luật, NXB Công an nhân dân, tr 31. [8] Đảng Cộng sản Việt Nam: Sđd, tr 149. [9] Xem: Võ Khánh Vinh, Về xã hội pháp quyền Việt Nam trong sách Tiếp tục đổi mới tư duy pháp lý phục vụ sự nghiệp phát triển đất nước, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2020, tr.55-72. [10] Đảng Cộng sản Việt Nam: tlđd, t.1, tr.287. [11] Đảng Cộng sản Việt Nam: tlđd, t.2, tr.149. [12] Đảng Cộng sản Việt Nam: tlđd, t.2, tr.149. [13] Đoán định tư pháp là một xu thế thay đổi cung cách cung cấp dịch vụ pháp lý, trong đó có hoạt động xét xử của tòa án, dưới sức ép của thời đại dữ liệu lớn (big data), trí tuệ nhân tạo (AI), với sự xuất hiện của các công ty khởi nghiệp công nghệ pháp lý (legal tech start-up), cung cấp những giải pháp tư vấn, hỗ trợ pháp lý trên nền tảng của các công nghệ thông minh. Nguồn: Phạm Duy Nghĩa, Đoán định tư pháp là gì, https://thongtinphapluatdansu.edu.vn/2021/07/21/22/03/don-dinh-tu-php-l-g/, ngày 25/9/2021. [14] UNODC và UNDP, Tiếp cận sớm trợ giúp pháp lý trong các quá trình tố tụng hình sự: Sổ tay cho các nhà hoạch định chính sách và các nhà thực tiễn, New York, 2014, tr 23. [15] Đinh Thế Hưng, Nhận thức về tính hiện đại của thiết chế tư pháp, cải cách tư pháp trong Nghị quyết Đại hội XIII, https://tapchitoaan.vn/bai-viet/phap-luat/nhan-thuc-ve-tinh-hien-dai-cua-thiet-che-tu-phap-cai-cach-tu-phap-trong-nghi-quyet-dai-hoi-xiii. [16] Đinh Thế Hưng, tlđd. |
TIẾN SĨ ĐINH THẾ HƯNG
Viện Nhà nước và Pháp luật, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam