Ảnh minh họa.
Khái niệm hợp đồng thương mại
Hợp đồng thương mại là một loại của hợp đồng dân sự. Hiện nay pháp luật Việt Nam không có khái niệm chính thức về thương mại và Hợp đồng thương mại. Tuy nhiên tại Luật Thương mại 2005 có định nghĩa về hoạt động thương mại như sau: “Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác” . Do hợp đồng thương mại là một loại của hợp đồng dân sự, nên loại hợp đồng này vừa có những điểm chung của một hợp đồng dân sự đồng thời bản thân nó cũng có những đặc thù riêng để phân biệt với các loại hợp đồng khác. Về mặt chủ thể của hợp đồng thương mại chủ yếu được thiết lập giữa các chủ thể là thương nhân. Thương nhân bao gồm các tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp và cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên, có đăng ký kinh doanh. Thương nhân của hợp đồng thương mại có thể là thương nhân Việt Nam hoặc thương nhân nước ngoài. Ngoài ra, các tổ chức, cá nhân không phải là thương nhân cũng có thể trở thành chủ thể của hợp đồng thương mại trong trường hợp pháp luật quy định cụ thể .
Căn cứ áp dụng chế tài bồi thường thiệt hại trong hợp đồng thương mại.
Điều 302, Luật Thương mại năm 2005 quy định: “Bồi thường thiệt hại là việc bên vi phạm bồi thường những tổn thất do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra cho bên bị vi phạm”. Như vậy, về nguyên tắc, khi một bên vi phạm các điều khoản đã được thỏa thuận trong hợp đồng thương mại dẫn đến hậu quả gây tổn thất, thiệt hại cho bên kia thì bên bị vi phạm có quyền yêu cầu bên vi phạm phải bồi thường thiệt hại. Tuy nhiên chế tài bồi thường thiệt hại chỉ có thể được áp dụng khi có đầy đủ cấc yếu tố sau:
- Có hành vi vi phạm hợp đồng. Hành vi vi phạm hợp hợp đồng là hành vi không thực hiện, thực hiện không đầy đủ hoặc thực hiện không đúng những nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng. Nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng là những nghĩa vụ được ghi nhận trong các điều khoản của hợp đồng hoặc được pháp luật điều chỉnh hợp đồng đó quy định. Hành vi vi phạm hợp đồng chỉ xảy ra khi hợp đồng được giao kết hợp pháp và đã có hiệu lực pháp luật. Hợp đồng hợp pháp là hợp đồng thỏa mãn các yếu tố căn bản thể hiện sự tự do ý chí của các bên tham gia giao kết (không có dấu hiệu lừa dối, ép buộc, chủ thể ký kết có năng lực pháp luật và năng lực hành vi, nội dung và hình thức của hợp đồng không trái với quy định của pháp luật... Căn cứ vào Luật Thương mại 2005, sẽ được coi là vi phạm hợp đồng khi bên vi phạm có một trong các hành vi sau:
Thứ nhất: Không thực hiện ngĩa vụ đã thỏa thuận trong hợp đồng. Đối với một hợp đồng được xác lập tuân thủ các nguyên tắc cơ bản tự do, tự nguyện và trung thực, thiện chí thì tất cả các điều khoản của hợp đồng đều có giá trị pháp lý ràng buộc đối với các bên trong quan hệ hợp đồng. Do đó, nếu trong quá trình thực hiện hợp đồng, một trong các bên không thực hiện những nghĩa vụ đã thỏa thuận hay nói cách khác là từ chối thực hiện nghĩa vụ thì bên đó đã có hành vi vi phạm hợp đồng
Thứ hai: Thực hiện không đầy đủ những nghĩa vụ đã thỏa thuận trong hợp đồng. Trong trường hợp này, bên vi phạm đã thực hiện nghĩa vụ theo thỏa thuận nhưng lại thực hiện không đầy đủ, và việc không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ theo thỏa thuận cũng được xác định là một trong các hành vi vi phạm nghĩa vụ hợp đồng. Thông thường trong một hợp đồng thương mại như hợp đồng mua bán hàng hóa, hợp đồng cung ứng dịch vụ bao giờ các bên cũng thỏa thuận những nội dung cơ bản như: Đối tượng của hợp đồng, thời hạn giao hàng, phương thức giao hàng, phương thức thanh toán, số lượng, khối lượng , chất lượng của hàng hóa hay dịch vụ v.v…Những nội dung cơ bản nêu trên của hợp đồng sẽ là căn cứ quan trọng để xác định việc thực hiện nghĩa vụ của các bên đã đầy đủ hay chưa.
Thứ ba: Thực hiện không đúng nghĩa vụ đã thỏa thuận trong hợp đồng. Việc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã thỏa thuận trong hợp đồng có thể bắt nguồn từ việc bên vi phạm thực sự không có khả năng thực hiện hợp đồng hoặc vô ý, cố ý thực hiện sai lệch những nghĩa vụ đã thỏa thuận trong hợp đồng vì một mục đích nào đó. Trên thực tế, xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau, sau khi hợp đồng đã được ký kết và có hiệu lực thì một trong các bên lại không thể thực hiện đúng các nghĩa vụ như đã thỏa thuận.
- Có thiệt hại thực tế: Thiệt hại vật chất thực tế xảy ra là một trong những căn cứ để áp dụng chế tài bồi thường thiệt hại. Theo Điều 304 và Điều 305, Luật Thương mại 2005 quy định, để có thể áp dụng chế tài bồi thường thiệt hại, bên bị vi phạm phải chứng minh được tổn thất do hành vi vi phạm gây ra. Cách xác định thiệt hại trong vi phạm hợp đồng thương mại là vấn đề hết sức quan trọng bởi việc xác định thiệt hại đúng và phù hợp là yếu tố quyết định trong việc đảm bảo thực hiện trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Thiệt hại thực tế là những thiệt hại có thể tính thành tiền mà bên bị vi phạm phải gánh chịu. Thiệt hại thực tế được chia thành thiệt hại thực tế trực tiếp và thiệt hại thực tế gián tiếp. Thiệt hại thực tế trực tiếp là những thiệt hại xảy ra trên thực tế có thể tính toán một cách rõ ràng và chi tiết. Biểu hiện là mất mát , hư hỏng, chi phí để sửa chữa, ngăn chặn và hạn chế thiệt hại xảy ra. Thiệt hại thực tế gián tiếp là những thiệt hại phải dựa trên sự suy đoán khoa học (trên cơ sở chứng cứ tài liệu) mới xác định được. Biểu hiện là thu nhập thực tế bị mất , bị giảm sút, khoản lợi đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm . Tuy nhiên Luật thương mại cũng quy định bên yêu cầu bồi thường thiệt hại phải áp dụng các biện pháp hợp lý để hạn chế tổn thất. Trong trường hợp bên vi phạm chứng minh được bên bị vi phạm không sử dụng các biện pháp hợp lý để ngăn chặn thiệt hại xảy ra thì bên bị vi phạm phải chịu một phần trách nhiệm trong phần thiệt hại do bên vi phạm gây ra.
- Hành vi vi phạm hợp đồng là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại. Sau khi xác định được hành vi vi phạm và thiệt hại thực tế, phải xác định giữa chúng có mối quan hệ nhân quả tức là hành vi đó phải là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại và kết quả thiệt hại xảy ra là tất yếu thì mới có căn cứ áp dụng . Trên thực tế, một hành vi vi phạm hợp đồng có thể gây ra nhiều khoản thiệt hại và một khoản thiệt hại có thể do nhiều hành vi vi phạm gây ra. Chính vì vậy, việc xác định chính xác mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và thiệt hại thực tế xảy ra không phải dễ dàng, đòi hỏi các bên liên quan phải cung cấp đầy đủ, chính xác các tài liệu, bằng chứng trong quá trình giải quyết sự vụ.
Những bất cập trong các quy định về bồi thường thiệt hại
Thực tiễn áp dụng liên quan đến bồi thường thiệt hại tại Việt Nam còn bộc lộ những hạn chế nhất định, nhiều tranh chấp xảy ra khó giải quyết kịp thời và triệt để. Cụ thể:
- Các bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng thương mại còn có sự khác biệt, chưa thống nhất giữa Bộ luật Dân sự năm 2015 và Luật Thương mại năm 2005. Nếu Bộ luật Dân sự năm 2015 ghi nhận yếu tố lỗi là một trong căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại thì Luật Thương mại 2005 không ghi nhận yếu tố lỗi. Luật Thương mại 2005 có ghi nhận bốn trường hợp miễn trách nhiệm cho bên vi phạm hợp đồng, bao gồm: (i) xảy ra trường hợp miễn trách nhiệm mà các bên đã thỏa thuận; (ii) xảy ra sự kiện bất khả kháng; (iii) hành vi vi phạm của một bên hoàn toàn do lỗi của bên kia; (iv) hành vi vi phạm của một bên do thực hiện quyết định của cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền mà các bên không thể biết được vào thời điểm giao kết hợp đồng. Bộ luật Dân sự năm 2015 không đưa hành vi vi phạm của một bên do thực hiện quyết định của cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền mà các bên không thể biết được vào thời điểm giao kết hợp đồng làm căn cứ miễn trách nhiệm bồi thường. Bộ luật Dân sự 2015 yêu cầu bên vi phạm phải bồi thường toàn bộ thiệt hại về vật chất và tinh thần cho bên bị thiệt hại, trong khi đó Luật Thương mại 2005 lại xác định phạm vi bồi thường thiệt hại là giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp mà bên bị vi phạm phải chịu do bên vi phạm gây ra và khoản lơi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm.
Về giá trị bồi thường thiệt hại: Khoản 2, Điều 302, Luật Thương mại năm 2005 xác định giá trị bồi thường thiệt hại bao gồm giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp mà bên bị vi phạm phải chịu do bên vi phạm gây ra và khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm gây ra. Trong khi đó Bộ luật Dân sự năm 2015 lại cho phép các bên có quyền thỏa thuận về bồi thường thiệt hại. Cụ thể các bên được thỏa thuận trước mức bồi thường thiệt hại bằng cách xác định trước một khoản tiền bồi thường thiệt hại cụ thể trong hợp đồng .
- Pháp luật Việt Nam về bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng thương mại còn nhiều điểm chưa phù hợp, không tương thích với pháp luật quốc tế. Cụ thể: về phạm vi thiệt hại được bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng thương mại, pháp luật Việt Nam chưa quy định rõ vi phạm bao gồm những thiệt hại phi tiền tệ (như thiệt hại do mất uy tín, thiệt hại do người bị chết, bị thương…) và thiệt hại có tính đến mọi khoản lợi cho bên có quyền từ một khoản chi phí hay tổn thất tránh được.
- Các quy định về miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng thương mại còn một số điểm chưa được quy định rõ ràng và còn thiếu như: Điều 294 Luật Thương mại 2005 quy định về việc miễn trách nhiệm do sự kiện bất khả kháng nhưng không quy định rõ sự kiện bất khả kháng xảy ra với chính chủ thể trong quan hệ hợp đồng hay sự kiện bất khả kháng xảy ra với bên thứ ba. Quy định về miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp hành vi vi phạm của một bên do thực hiện quyết định của cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền mà các bên không thể biết được vào thời điểm giao kết hợp đồng cũng chưa triệt để vì chưa dự liệu trách nhiệm của Nhà nước đối với người thiệt hại trong trường hợp này.
Kết luận
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại là một trong các chế tài được áp dụng trong hợp đồng thương mại nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng của các chủ thể khi tham gia vào hợp hợp đồng thương mại đồng thời đề cao ý thức, trách nhiệm của mỗi bên trong việc thực thi các nghĩa vụ của mình. Tuy nhiên việc áp dụng chế tài bồi thường thiệt hại đối với hợp đồng thương mại trong thực tế không hề đơn giản, đòi hỏi các bên liên quan phải vận dụng đầy đủ, đúng đắn các quy định của pháp luận hiện hành mới có thể đưa ra phán quyết hợp tình hợp lý. Bên cạnh đó, hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay chưa có sự đồng bộ, thống nhất đối với các quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng dân sự và hợp đồng thương mại, chưa tương thích với quy định của luật pháp quốc tế. Chính vì vậy, điều chỉnh những bất cập đối với quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong Luật Thương mại là yêu cầu cấp thiết trong giai đoạn hiện nay.
Luật sư ĐINH TRỌNG LIÊN
Đoàn Luật sư tỉnh Đồng Nai
Kiến nghị giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tiếp công dân