CHIỀU
1. Mức xử phạt đối với hành vi vi phạm các quy định về thực hiện nghĩa vụ quân sự
(LSVN) – Đây là một trong những nội dung đáng chú ý Nghị định số 37/2022/NĐ-CP ngày 06/6/2022 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quốc phòng, cơ yếu; quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia; trên các vùng biển, đảo và thềm lục địa của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Cụ thể, Nghị định số 37/2022/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung Điều 9 Nghị định số 120/2013/NĐ-CP ngày 09/10/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quốc phòng, cơ yếu.
Theo đó, phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau:
- Báo cáo không đầy đủ danh sách công dân nam đủ 17 tuổi trong năm, công dân nữ có ngành nghề chuyên môn phù hợp với yêu cầu của Quân đội nhân dân trong độ tuổi thực hiện nghĩa vụ quân sự từ đủ 18 tuổi đến hết 40 tuổi; báo cáo không đầy đủ số lượng quân nhân dự bị và người sẵn sàng nhập ngũ ở cơ quan, tổ chức mình theo quy định;
- Cố ý báo cáo không chính xác danh sách công dân nam đủ 17 tuổi trong năm, công dân nữ có ngành nghề chuyên môn phù hợp với yêu cầu của Quân đội nhân dân trong độ tuổi thực hiện nghĩa vụ quân sự từ đủ 18 tuổi đến hết 40 tuổi; báo cáo không chính xác số lượng quân nhân dự bị và người sẵn sàng nhập ngũ ở cơ quan, tổ chức mình theo quy định.
Phạt tiền từ 15.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau:
- Không báo cáo danh sách công dân nam đủ 17 tuổi trong năm, công dân nữ có ngành nghề chuyên môn phù hợp với yêu cầu của Quân đội nhân dân từ đủ 18 tuổi đến hết 40 tuổi;
- Không báo cáo số lượng quân nhân dự bị và người sẵn sàng nhập ngũ ở cơ quan, tổ chức mình theo quy định.
Phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng đối với hành vi không tiếp nhận trở lại trường học; không tiếp nhận và bố trí việc làm cho hạ sĩ quan, binh sĩ đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự trở về cơ quan, tổ chức cũ làm việc.
Biện pháp khắc phục hậu quả: Buộc thực hiện việc báo cáo theo quy định đối với hành vi vi phạm quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này. Buộc tiếp nhận trở lại trường học; tiếp nhận và bố trí việc làm cho hạ sĩ quan, binh sĩ đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự trở về cơ quan, tổ chức cũ làm việc đối với hành vi vi phạm quy định tại khoản 3 Điều này.
DUY ANH
Xem xét việc rút quyết định truy tố hoặc kết luận về tội nhẹ hơn tại phiên tòa
2. Bổ sung các trường hợp ngoại lệ không xâm phạm quyền tác giả
(LSVN) - Đây là một trong những quy định mới đáng chú ý tại Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ số 07/2022/QH15 được Quốc hội thông qua ngày 16/6/2022.
Theo đó, Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi 2022 đã sửa đổi, bổ sung Điều 25 và bổ sung Điều 25a vào sau Điều 25 Luật Sở hữu trí tuệ 2005. Cụ thể, Luật quy định các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép, không phải trả tiền bản quyền nhưng phải thông tin về tên tác giả và nguồn gốc, xuất xứ của tác phẩm bao gồm:
- Tự sao chép một bản để nghiên cứu khoa học, học tập của cá nhân và không nhằm mục đích thương mại. Quy định này không áp dụng trong trường hợp sao chép bằng thiết bị sao chép. So với hiện hành, bổ sung trường hợp dùng cho học tập; bổ sung yêu cầu các trường trên phải không nhằm mục đích thương mại; bổ sung trường hợp loại trừ.
- Sao chép hợp lý một phần tác phẩm bằng thiết bị sao chép để nghiên cứu khoa học, học tập của cá nhân và không nhằm mục đích thương mại. Đây là một trong những điểm mới được bổ sung.
- Sử dụng hợp lý tác phẩm để minh họa trong bài giảng, ấn phẩm, cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng nhằm mục đích giảng dạy. Việc sử dụng này có thể bao gồm việc cung cấp trong mạng máy tính nội bộ với điều kiện phải có các biện pháp kỹ thuật để bảo đảm chỉ người học và người dạy trong buổi học đó có thể tiếp cận tác phẩm này.
- Sử dụng tác phẩm trong hoạt động công vụ của cơ quan nhà nước. Đây là một trong những điểm mới được bổ sung.
- Trích dẫn hợp lý tác phẩm mà không làm sai ý tác giả để bình luận, giới thiệu hoặc minh họa trong tác phẩm của mình; để viết báo, sử dụng trong ấn phẩm định kỳ, trong chương trình phát sóng, phim tài liệu.
- Sử dụng tác phẩm trong hoạt động thư viện không nhằm mục đích thương mại, bao gồm sao chép tác phẩm lưu trữ trong thư viện để bảo quản, với điều kiện bản sao này phải được đánh dấu là bản sao lưu trữ và giới hạn đối tượng tiếp cận theo quy định của pháp luật về thư viện, lưu trữ; sao chép hợp lý một phần tác phẩm bằng thiết bị sao chép cho người khác phục vụ nghiên cứu, học tập; sao chép hoặc truyền tác phẩm được lưu giữ để sử dụng liên thông thư viện thông qua mạng máy tính, với điều kiện số lượng người đọc tại cùng một thời điểm không vượt quá số lượng bản sao của tác phẩm do các thư viện nói trên nắm giữ, trừ trường hợp được chủ sở hữu quyền cho phép và không áp dụng trong trường hợp tác phẩm đã được cung cấp trên thị trường dưới dạng kỹ thuật số.
- Biểu diễn tác phẩm sân khấu, âm nhạc, múa và các loại hình biểu diễn nghệ thuật khác trong các buổi sinh hoạt văn hóa, hoạt động tuyên truyền cổ động không nhằm mục đích thương mại.
- Chụp ảnh, truyền hình tác phẩm mỹ thuật, kiến trúc, nhiếp ảnh, mỹ thuật ứng dụng được trưng bày tại nơi công cộng nhằm giới thiệu hình ảnh của tác phẩm đó, không nhằm mục đích thương mại.
- Nhập khẩu bản sao tác phẩm của người khác để sử dụng cá nhân, không nhằm mục đích thương mại.
- Sao chép bằng cách đăng tải lại trên báo, ấn phẩm định kỳ, phát sóng hoặc các hình thức truyền thông khác tới công chúng bài giảng, bài phát biểu, bài nói khác được trình bày trước công chúng trong phạm vi phù hợp với mục đích thông tin thời sự, trừ trường hợp tác giả tuyên bố giữ bản quyền. Đây là một trong những điểm mới được bổ sung.
- Chụp ảnh, ghi âm, ghi hình, phát sóng sự kiện nhằm mục đích đưa tin thời sự, trong đó có sử dụng tác phẩm được nghe thấy, nhìn thấy trong sự kiện đó. So với hiện hành, bổ sung hành vi chụp ảnh.
- Người khuyết tật nhìn, người khuyết tật không có khả năng đọc chữ in và người khuyết tật khác không có khả năng tiếp cận tác phẩm để đọc theo cách thông thường (sau đây gọi là người khuyết tật), người nuôi dưỡng, chăm sóc cho người khuyết tật, tổ chức đáp ứng điều kiện theo quy định của Chính phủ sử dụng tác phẩm theo quy định tại Điều 25a của Luật Sở hữu trí tuệ 2005.
Việc sử dụng tác phẩm quy định tại khoản 1 Điều này không được mâu thuẫn với việc khai thác bình thường tác phẩm và không gây thiệt hại một cách bất hợp lý đến lợi ích hợp pháp của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả.
Việc sao chép quy định tại khoản 1 Điều này không áp dụng đối với tác phẩm kiến trúc, tác phẩm mỹ thuật, chương trình máy tính; việc làm tuyển tập, hợp tuyển các tác phẩm.
PHƯƠNG HOA
Tòa án xét xử kín trong trường hợp nào?
3. Hành vi quấy rối tình dục có thể bị xử lý như thế nào?
(LSVN) - Vừa qua, trên mạng xã hội xuất hiện bài viết của cô gái với nội dung tố cáo việc bị một người đàn ông quấy rối tình dục bằng hình thức viết thư xin “ngủ cùng” một đêm. Công an phường đã làm việc với nạn nhân, đồng thời tiến hành trích xuất camera; xác định người gửi thư cho cô gái trẻ xin "ngủ cùng” là một người đàn ông gần 80 tuổi. Vậy, theo quy định của pháp luật, như thế nào được coi là hành vi quấy rối tình dục và hành vi này có thể bị xử lý như thế nào?
Ảnh minh họa.
Dưới góc độ pháp lý, Tiến sĩ, Luật sư Đặng Văn Cường, Trưởng Văn phòng Luật sư Chính pháp cho biết hành vi quấy rối tình dục là hành vi vi phạm pháp luật, người thực hiện hành vi quấy rối tình dục ở mức độ lời nói, hành vi nhưng chưa đến mức tấn công tình dục, chưa thực hiện hành vi quan hệ tình dục trái ý muốn với nạn nhân thì có thể bị xử phạt hành chính với mức phạt lên đến 8.000.000 đồng.
Hành vi quấy rối tình dục thể hiện rất đa dạng, có thể là lời nói, ánh mắt, cử chỉ, chữ viết (bức thư), hình ảnh hoặc là những hành vi đụng chạm cơ thể, sờ mó, nắn bóp, thậm chí là những hành vi nghiêm trọng hơn là tấn công tình dục, cưỡng dâm, hiếp dâm... Hành vi quấy rối tình dục ban đầu có thể chỉ là ánh mắt, lời nói, đụng chạm. Nhưng nếu hành vi này không được phát hiện, ngăn chặn kịp thời thì người thực hiện hành vi có thể quá đà hơn, có thể thực hiện những hành vi tiếp xúc cơ thể trái ý muốn, thậm chí có thể là hành vi cưỡng dâm, hiếp dâm nạn nhân.
Hành vi quấy rối tình dục có thể xảy ra trong tất cả các mối quan hệ xã hội, với những người hàng xóm, ở nơi công cộng, môi trường học đường, công sở, trong môi trường làm việc hay ở bất kỳ đâu khi có mối quan hệ giữa con người với con người, đặc biệt là giữa những người khác giới. Khái niệm về hành vi quấy rối tình dục trong hệ thống pháp luật Việt Nam rất nghèo nàn, sơ sài, thiếu hướng dẫn. Có lẽ chỉ trong lĩnh vực lao động là có những quy định cụ thể. Hành vi quấy rối tình dục nơi làm việc được quy định tại khoản 9 Điều 3 Bộ luật lao động 2019 là hành vi có tính chất tình dục của bất kỳ người nào đối với người khác tại nơi làm việc mà không được người đó mong muốn hoặc chấp nhận. Nơi làm việc là bất kỳ nơi nào mà người lao động thực tế làm việc theo thỏa thuận hoặc phân công của người sử dụng lao động.
Ngoài lĩnh vực lao động thì hành vi quấy rối tình dục cũng xảy ra nhiều trong đời sống xã hội nhưng không có những quy định cụ thể. Hành vi quấy rối tình dục trong lĩnh vực lao động thì sẽ bị xử phạt tuổi 30.000.000 đồng còn hành vi quấy rối tình dục trong những lĩnh vực khác, ảnh hưởng đến an ninh trật tự, an toàn xã hội thì bị phạt tới 8.000.000 đồng.
Nếu hành vi quấy rối tình dục chỉ ở dạng lời nói, cử chỉ, gửi thông điệp hoặc hành động đụng chạm... nhưng chưa thể hiện thực hiện hành vi quan hệ tình dục trong lĩnh vực khác thì người vi phạm sẽ bị xử phạt hành chính theo quy định tại Điều 7, Nghị định 144/2021/NĐ-CP với mức phạt là phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 8.000.000 đồng (Mức hình phạt trước đây chỉ là từ 100.000 đồng đến 300.000 đồng theo quy định tại nghị định 167/2013). Cụ thể như sau:
"5. Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 8.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:
...
d) Dâm ô đối với người dưới 16 tuổi nhưng không bị truy cứu trách nhiệm hình sự;
đ) Sàm sỡ, quấy rối tình dục;"
Trong lĩnh vực lao động thì hành vi quấy rối tình dục sẽ có chế tài cao hơn, có thể xử phạt đến 30.000.000 đồng. Tại khoản 3, Điều 11 Nghị định 12/2022/NĐ-CP quy định: Phạt tiền từ 15.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng đối với hành vi quấy rối tình dục tại nơi làm việc nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự.
Như vậy, có thể thấy trong trường hợp này người đàn ông lớn tuổi đã viết bức thư đề nghị quan hệ tình dục có trả tiền đối với cô gái hàng xóm nhưng không được cô gái chấp nhận và đã có đơn tố cáo thì đây là hành vi quấy rối tình dục. Đề nghị về tình dục có trả tiền không được cô gái đáp ứng, khiến cô gái lo lắng sợ hãi, xấu hổ, bất an nên người đàn ông này sẽ bị xử phạt hành chính theo quy định tại Nghị định 144/2021/NĐ-CP với mức phạt có thể tới 8.000.000 đồng.
Cũng cần nói thêm là pháp luật Việt Nam nghiêm cấm mọi hành vi mua bán dâm: quan hệ tình dục có trả tiền. Bởi vậy nếu người nào đề nghị quan hệ tình dục có trả tiền mà người được đề nghị đồng ý, hành vi quan hệ tình dục có trả tiền diễn ra thì cả hai bên đều có thể bị xử phạt hành chính về hành vi mua dâm và hành vi bán dâm. Còn hành vi đề nghị quan hệ tình dục hoặc những hành vi có tính chất tình dục khác đối với người khác nhưng không được đón nhận thì đây là hành vi quấy rối tình dục, người thực hiện hành vi quấy rối tình dục sẽ bị xử lý bằng các chế tài của pháp luật.
Theo diễn biến sự việc thì người đàn ông này đã là người cao tuổi, và đúng là hàng xóm của cô gái. Người này chỉ có hành vi viết thư đề nghị và không có thêm hành vi nào khác nên chưa trực tiếp xâm phạm đến thân thể của cô gái. Tuy nhiên, hành vi gợi ý ngủ chung có trả tiền khiến cho cô gái lo lắng sợ hãi, xấu hổ nên người đàn ông này sẽ bị xử phạt hành chính theo quy định tại điều 7 của Nghị định 144/2021/NĐ-CP mà không phụ thuộc vào yêu cầu của cô gái. Trường hợp cô gái không có đơn nhưng cơ quan chức năng phát hiện hoặc có đơn nhưng sau đó rút đơn tố cáo thì người đàn ông này vẫn sẽ bị xử phạt hành chính bởi hành vi của người đàn ông này không chỉ xâm phạm đến danh dự nhân phẩm, uy tín của cô gái mà còn xâm hại đến trật tự xã hội, gây mất an ninh trật tự.
Pháp luật Việt Nam ghi nhận, tôn trọng quyền tự do dân chủ của mọi công dân, trong đó có quyền tự do tình dục. Hành vi quan hệ tình dục phải trên cơ sở tự nguyện và phù hợp với quy định của pháp luật. Hành vi quan hệ tình dục có trả tiền là hành vi mua bán dâm và bị cấm tại Việt Nam. Hành vi gợi ý tình dục với người khác mà không được chấp nhận thì đó là hành vi quấy rối tình dục, hành vi này cũng sẽ bị xử phạt hành chính về an ninh trật tự, an toàn xã hội.
TIẾN HƯNG
Cần có những quy định mở rộng quyền của chủ sở hữu biển số xe
4. Giảm lãi suất cho vay còn 0,75%/tháng đối với thương nhân hoạt động tại vùng khó khăn
(LSVN) - Đây là đề xuất của Bộ Tài chính tại dự thảo Quyết định sửa đổi, bổ sung Quyết định số 31/2007/QĐ-TTg về tín dụng đối với hộ gia đình sản xuất, kinh doanh tại vùng khó khăn và Quyết định số 92/2009/QĐ-TTg về tín dụng đối với thương nhân hoạt động thương mại tại vùng khó khăn.
Ảnh minh họa.
Theo đó, dự thảo sửa đổi, bổ sung quy định lãi suất cho vay được quy định tại Điều 8 Quyết định số 31/2007/QĐ-TTg.
Cụ thể, quy định hiện nay: "Lãi suất cho vay bằng 0,9%/tháng. Lãi suất nợ quá hạn bằng 130% lãi suất cho vay. Việc điều chỉnh mức lãi suất cho vay do Thủ tướng Chính phủ quyết định theo đề nghị của Bộ Tài chính".
Dự thảo Quyết định sửa đổi, bổ sung theo hướng: "Lãi suất cho vay bằng 0,75%/tháng. Lãi suất nợ quá hạn bằng 130% lãi suất cho vay. Việc điều chỉnh mức lãi suất cho vay do Thủ tướng Chính phủ quyết định trong từng thời kỳ trên cơ sở đề xuất của Hội đồng quản trị Ngân hàng Chính sách xã hội. Lãi suất cho vay đảm bảo nguyên tắc bù đắp lãi suất bình quân các nguồn vốn và phí quản lý đối với Chương trình này. Trong đó, lãi suất bình quân các nguồn vốn và phí quản lý xác định theo hướng dẫn của Bộ Tài chính về quy chế quản lý tài chính đối với Ngân hàng Chính sách xã hội".
ĐẠT NGUYỄN
Bộ GD&ĐT đề xuất miễn học phí cho học sinh THCS cả nước
5.
SÁNG
1. Điều kiện mua nhà ở để phục vụ tái định cư
(LSVN) - Pháp luật hiện hành quy định như thế nào về điều kiện mua nhà ở để phục vụ tái định cư? Bạn đọc P.L. hỏi.
Ảnh minh họa.
Theo quy định tại khoản 6 Điều 3 Luật Nhà ở 2014, nhà ở để phục vụ tái định cư là nhà ở để bố trí cho các hộ gia đình, cá nhân thuộc diện được tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất ở, bị giải tỏa nhà ở theo quy định của pháp luật.
Căn cứ theo khoản 2 Điều 30 Nghị định 99/2015/NĐ-CP, có 03 đối tượng thuộc diện được thuê, thuê mua, mua nhà ở để phục vụ tái định cư bao gồm:
- Hộ gia đình, cá nhân có nhà ở hợp pháp thuộc diện bị giải tỏa khi Nhà nước thu hồi đất để thực hiện dự án vì mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng theo quy hoạch đã được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt;
- Hộ gia đình, cá nhân bị Nhà nước thu hồi đất ở gắn với nhà ở và phải di chuyển chỗ ở nhưng không đủ điều kiện được bồi thường về đất ở theo quy định của pháp luật về đất đai và không có chỗ ở nào khác;
- Hộ gia đình, cá nhân là chủ sở hữu nhà chung cư thuộc diện phải phá dỡ để cải tạo, xây dựng lại theo quy định tại Điều 110 của Luật Nhà ở 2014.
Về điều kiện mua nhà ở để phục vụ tái định cư quy định tại khoản 2 Điều 30 Nghị định 99/2015/NĐ-CP như sau:
- Trường hợp đối tượng thuộc (1) và (2) mục 2,có nhu cầu mua nhà ở thương mại hoặc thuê, thuê mua, mua nhà ở phục vụ tái định cư do Nhà nước đầu tư thì phải có tên trong danh sách được bố trí tái định cư theo phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư đã được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt và có đơn đề nghị bố trí nhà ở tái định cư theo mẫu do Bộ Xây dựng ban hành;
- Trường hợp đối tượng quy định thuộc (1), (2) có nhu cầu thuê, thuê mua, mua nhà ở xã hội thì phải có tên trong danh sách được bố trí tái định cư theo phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư đã được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt, có đơn đề nghị bố trí nhà ở tái định cư bằng nhà ở xã hội theo mẫu do Bộ Xây dựng ban hành và phải thuộc diện chưa được Nhà nước bồi thường bằng nhà ở, đất ở;
- Trường hợp thuộc đối tượng (3) thì được bố trí nhà ở tái định cư theo quy định tại Điều 115, Điều 116 của Luật Nhà ở 2014 và pháp luật về cải tạo, xây dựng lại nhà chung cư.
Như vậy để mua nhà ở phục vụ tái định cư thì hộ gia đình, cá nhân phải thuộc điều kiện nêu trên.
TIẾN HƯNG
Xem xét việc rút quyết định truy tố hoặc kết luận về tội nhẹ hơn tại phiên tòa
2. Một số vấn đề pháp lý về mua bán nhà ở hình thành trong tương lai
(LSVN) - Giao dịch mua bán nhà ở hình thành trong tương lai là giao dịch mang lại nhiều lợi ích cho cả chủ đầu tư và khách hàng. Đối với chủ đầu tư, đây là một kênh huy động vốn mà không phải chịu lãi suất từ khách hàng. Đối với khách hàng thì có thể tham gia ngay từ quá trình xây dựng nhà ở phù hợp với thị hiếu của mình và được trả chậm, trả dần với giá thấp. Luật Kinh doanh bất động sản năm 2014 đã có các quy định về điều kiện bán nhà ở hình thành tương lai; quy định về trách nhiệm, nghĩa vụ của chủ đầu tư với khách hàng và quy định về chế tài xử lý đối với các hành vi vi phạm quyền và lợi ích hợp pháp của khách hàng nhưng thực tiễn áp dụng còn bộc lộ nhiều điểm hạn chế, còn nhiều vi phạm pháp luật, gây thiệt hại cho khách hàng và cả nhà đầu tư. Chính phủ đang tổ chức việc tổng kết việc thi hành Luật Kinh doanh bất động sản năm 2014 và sửa đổi, bổ sung Luật này. Việc đánh giá một số quy định về mua bán nhà ở hình thành trong tương lai và thực tiễn thi hành để góp phần hoàn thiện pháp luật về lĩnh vực này là rất cần thiết.
Pháp luật về mua bán nhà ở hình thành trong tương lai
Theo khoản 1 Điều 3 Luật Nhà ở năm 2014 thì nhà ở là công trình xây dựng với mục đích để ở và phục vụ các nhu cầu sinh hoạt của hộ gia đình, cá nhân. Điều 3 Luật Kinh doanh bất động sản năm 2014 quy định: Nhà, công trình xây dựng hình thành trong tương lai là nhà, công trình xây dựng đang trong quá trình xây dựng và chưa được nghiệm thu đưa vào sử dụng.
Mua bán nhà ở hình thành trong tương lai là giao dịch khá phổ biến trong kinh doanh bất động sản trên thực tế và được quy định trong các văn bản về kinh doanh bất động sản. Căn cứ vào các quy định pháp luật hiện hành, có thể hiểu về khái niệm mua bán nhà ở hình thành trong tương lai: Là sự thỏa thuận giữa bên bán nhà và bên mua nhà về việc xác lập quyền và nghĩa vụ đối với nhau tại thời điểm nhà ở đang trong quá trình xây dựng chưa được nghiệm thu. Bên bán sẽ bàn giao nhà và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho bên mua khi nhà ở được nghiệm thu và đưa vào sử dụng; ngược lại, bên mua hoàn thành nghĩa vụ thanh toán giá trị nhà ở cho bên bán sau khi nhận bàn giao nhà và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo quy định của pháp luật dân sự và Luật Kinh doanh bất động sản.
Quy định cơ bản về mua bán nhà ở hình thành trong tương lai:
Thứ nhất, chủ thể mua bán nhà ở hình thành trong tương lai phải đáp ứng các điều kiện đặt ra đối với tổ chức, cá nhân kinh doanh bất động sản quy định tại Điều 10 Luật Kinh doanh bất động sản năm 2014; Luật Đầu tư năm 2020. Theo đó, tổ chức, cá nhân kinh doanh bất động sản phải thành lập doanh nghiệp hoặc hợp tác xã (gọi chung là doanh nghiệp), trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 10 Luật Kinh doanh bất động sản năm 2014(1). Các nội dung này được quy định cụ thể hơn tại Điều 4 Nghị định số 02/2022/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật kinh doanh bất động sản năm 2014.
Thứ hai, điều kiện của nhà ở hình thành trong tương lai được đưa vào kinh doanh được quy định tại Điều 118 Luật Nhà ở năm 2014 và Điều 55, Điều 56, Điều 67 Luật Kinh doanh bất động sản năm 2014. Theo đó, nhà ở hình thành trong tương lai khi tham gia giao dịch mua bán phải bảo đảm: “Có giấy tờ về quyền sử dụng đất, hồ sơ dự án, thiết kế bản vẽ thi công đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt, Giấy phép xây dựng đối với trường hợp phải có giấy phép xây dựng, giấy tờ về nghiệm thu việc hoàn thành xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật tương ứng theo tiến độ dự án, trường hợp là nhà chung cư, tòa nhà hỗn hợp có mục đích để ở hình thành trong tương lai thì phải có biên bản nghiệm thu đã hoàn thành xong phần móng của tòa nhà đó”; “trước khi bán, cho thuê mua nhà ở hình thành trong tương lai, chủ đầu tư phải có văn bản thông báo cho cơ quan quản lý nhà ở cấp tỉnh về việc nhà ở đầy đủ kiện được bán, cho thuê mua”; Trước khi bán, chủ đầu tư dự án phải được ngân hàng thương mại có đủ năng lực thực hiện bảo lãnh nghĩa vụ tài chính của chủ đầu tư đối với khách hàng khi chủ đầu tư không bàn giao nhà ở theo tiến độ đã cam kết với khách hàng. Trường hợp chủ đầu tư không thực hiện bàn giao nhà ở theo tiến độ đã cam kết và bên mua có yêu cầu thì bên bảo lãnh có trách nhiệm hoàn lại số tiền ứng trước và các khoản tiền khác cho khách hàng theo hợp đồng mua bán đã ký kết. “Việc thanh toán trong mua bán, thuê mua bất động sản hình thành trong tương lai được thực hiện nhiều lần, lần đầu không quá 30% giá trị hợp đồng, những lần tiếp theo phải phù hợp với tiến độ xây dựng bất động sản nhưng tổng số không quá 70% giá trị hợp đồng khi chưa bàn giao nhà, công trình xây dựng cho khách hàng, trường hợp bên bán, bên cho thuê mua là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thì tổng số không quá 50% giá trị hợp đồng”(2).
Trường hợp bên mua chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất thì bên bán không được thu quá 95% giá trị hợp đồng, giá trị còn lại của hợp đồng được thanh toán khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho bên mua(3). Ngoài ra, chủ đầu tư phải bảo đảm sử dụng tiền ứng trước của khách hàng theo đúng mục đích đã cam kết.
Thứ ba, hình thức và nội dung của hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai các bên phải lập thành văn bản. Việc công chứng, chứng thực hợp đồng do các bên thỏa thuận theo quy định tại Điều 17, Điều 18 Luật Kinh doanh bất động sản. Các bên được chuyển nhượng hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai, thủ tục thực hiện theo Thông tư số 19/2016/TT-BXD ngày 30/6/2016 của Bộ Xây dựng hướng dẫn thực hiện một số nội dung của Luật Nhà ở.
Một số bất cập trong thực tiễn thi hành pháp luật về mua bán nhà ở hình thành trong tương lai
Về quy định pháp luật
Luật Kinh doanh bất động sản năm 2014 chưa có sự thống nhất với các quy định của Luật Đất đai, Luật Nhà ở, Luật Đầu tư cũng như có sự lệch pha giữa Luật Kinh doanh bất động sản và các văn bản hướng dẫn thi hành(4) như về công chứng hợp đồng, thủ tục giao dịch. Vấn đề bảo lãnh được quy định nhằm giảm rủi ro cho người mua nhưng cũng còn nhiều vướng mắc gây khó khăn cho nhiều doanh nghiệp và còn nhiều tiêu cực, đẩy giá nhà ở cao hơn(5).
Luật Kinh doanh bất động sản năm 2014 và Luật Nhà ở năm 2014 đã có những quy định cụ thể về vấn đề huy động vốn và bán sản phẩm của chủ đầu tư trong dự án bất động sản, nhưng nhiều chủ đầu tư vẫn tìm cách vi phạm luật để huy động vốn. Dù chưa đủ điều kiện nhưng nhiều chủ đầu tư đã ký các hợp đồng “Hợp tác đầu tư quyền mua căn hộ”; ký hợp đồng huy động vốn phát triển dự án và được nhận sản phẩm(6). Đối với nhà ở xã hội (nhà ở cho đối tượng chính sách, những người có thu nhập thấp) cũng có tình trạng ký hợp đồng góp vốn, nhận tiền cọc, hứa mua hứa bán rồi thu tiền chênh lệch như nhà ở thương mại. Để giải quyết vấn đề vốn mà trên thực tế đã có nhiều loại hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai trá hình, vi phạm pháp luật rất khó kiểm soát diễn ra giữa các nhà đầu tư cấp 1 với nhà đầu tư cấp 2 hoặc giữa nhà đầu tư với khách hàng, ví dụ như: “hợp đồng góp vốn”, tổ chức, hộ gia đình cá nhân góp vốn “được hưởng quyền mua nhà ở trong dự án bất động sản nhà ở” của chủ đầu tư; hợp đồng “hợp tác đầu tư, liên doanh liên kết” “hợp đồng vay vốn” và “được nhận chuyển nhượng nhà đất của dự án khi đủ điều kiện”; doanh nghiệp phát hành “trái phiếu có kỳ hạn của doanh nghiệp”. Người mua trái phiếu của doanh nghiệp được hưởng quyền “mua nhà đất của dự án”; “hợp đồng đặt cọc”, “hợp đồng giữ chỗ”; “hợp đồng hứa mua hứa bán nhà ở” của chủ đầu tư với khách hàng... Những hợp đồng này đều là vi phạm pháp luật, rất rủi ro cho khách hàng và cả nhà đầu tư khi ký kết các hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai chưa đủ điều kiện theo Nghị định số 99/2015/NĐ-CP ngày 20/10/2015 về thi hành Luật Nhà ở năm 2014 và Điều 19 Nghị định này quy định về ký hợp đồng huy động vốn cho phát triển nhà ở thương mại.
Chế tài cho việc xử lý vi phạm pháp luật trong kinh doanh bất động sản hình thành trong tương lai được quy định chưa đủ tính răn đe, chưa đầy đủ. Theo quy định tại Nghị định số 139/2017/NĐ-CP của Chính phủ, việc xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động đầu tư xây dựng, kinh doanh bất động sản, phát triển nhà ở, mức phạt cao nhất đối với các hành vi bị cấm chỉ là 300 triệu đồng(7). Mức phạt quá thấp so với lợi nhuận thu được từ các dự án bất động sản quy mô hàng chục, hàng trăm tỷ đồng thông qua việc lợi dụng khe hở pháp luật, nhiều chủ đầu tư cố tình vi phạm đã chấp nhận nộp phạt, ảnh hưởng lớn đến quyền lợi của các đối tượng khác. Các chế tài của pháp luật ngoài hình phạt và các biện pháp khắc phục hậu quả còn phải phòng ngừa, ngăn chặn các hành vi vi phạm. Chế tài xử lý các hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực mua bán nhà ở và các công trình xây dựng hình thành trong tương lai phải thực sự đủ mạnh, phải nghiêm khắc hơn nữa mới ngăn chặn, răn đe các hành vi vi phạm pháp luật.
Về thực tiễn thi hành pháp luật
(i) Ngân hàng thực hiện bảo lãnh nhà ở, nhưng ngân hàng rất khó kiểm soát được dòng tiền của các doanh nghiệp nếu không có quy định bắt buộc chủ đầu tư phải mở tài khoản tại ngân hàng bảo lãnh để nhận tiền thanh toán mua nhà của khách hàng theo hợp đồng hoặc thanh toán với các nhà thầu, nơi cung ứng vật tư… theo tiến độ thi công công trình. Vì vậy, cần thiết phải có công ty bảo hiểm thực hiện bảo lãnh dưới hình thức bảo hiểm rủi ro trong hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai để bảo vệ quyền lợi cho khách hàng. Thông tư số 07/2015/TT-NHNN cũng quy định ngân hàng chỉ bảo lãnh sau khi doanh nghiệp và người mua đã ký hợp đồng mua bán nhà. Về nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng, việc bảo lãnh bắt buộc phải có đối tượng cụ thể. Như vậy, ngoài bên bán, ngân hàng bắt buộc phải xác định được người thụ hưởng bảo lãnh - bên mua nhà, dẫn đến khó khăn cho ngân hàng trong công tác bảo lãnh dự án.
Có rất nhiều dự án triển khai mua bán bất động sản hình thành trong tương lai nhưng không có sự bảo lãnh chính thức từ phía ngân hàng. Nguyên nhân, một số chủ đầu tư cho rằng là do vướng mắc trong khâu thẩm định năng lực tài chính và tài sản thế chấp của doanh nghiệp. Về tài sản thế chấp, doanh nghiệp đã thế chấp chính dự án đang triển khai để vay vốn trước đó rồi, vì vậy phải huy động các tài sản khác để thế chấp nên rất khó khăn.
(ii) Khoản 2 Điều 19 Nghị định số 99/2015/NĐ-CP ngày 20/10/2015 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Nhà ở năm 2014 lại quy định trường hợp chủ đầu tư đã gửi hồ sơ nhưng quá thời hạn quy định (thời hạn 15 ngày) mà sở xây dựng không có văn bản thông báo về nhà ở đó đã đủ điều kiện được bán thì chủ đầu tư được quyền ký hợp đồng mua bán, cho thuê mua nhà ở hình thành trong tương lai nhưng phải chịu trách nhiệm về việc bán, cho thuê mua nhà ở này. Quy định này đã loại bỏ trách nhiệm của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc quản lý hoạt động mua bán nhà ở hình thành trong tương lai, đồng thời loại bỏ trách nhiệm bảo vệ quyền lợi của người mua, vốn là người chịu nhiều rủi ro trong giao dịch này. Có thể thấy pháp luật hiện hành về mua bán nhà ở hình thành trong tương lai đang thiếu sự thống nhất và đồng bộ.
(iii) Liên quan đến các quy định về quyền của bên bán trong việc huy động vốn, sử dụng tiền ứng trước của bên mua nhà. Rủi ro từ những giao dịch mua bán nhà ở hình thành trong tương lai trá hình, vi phạm pháp luật là rất lớn nhưng pháp luật hiện hành lại chưa có quy định chặt chẽ, thống nhất ngăn chặn hiện tượng này xảy ra, chưa có những biện pháp nghiêm khắc để xử lý. Về nguyên tắc, các hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai trá hình sẽ bị tuyên vô hiệu, vì về bản chất nó là hành vi vi phạm pháp luật. Tuy nhiên, quy định chưa phát huy hiệu quả trong trường hợp này. Bởi lẽ, một mặt, bản thân chủ đầu tư khi đó là bên có tiềm lực tài chính yếu kém nên phải huy động vốn từ các nguồn từ bên ngoài. Mặt khác, việc họ rơi vào tình trạng tranh chấp có thể xuất phát từ nhiều nguyên nhân, nhưng xét cho cùng thì kết quả là công trình nhà ở không thể được hoàn thành mà tiền ứng trước của người mua cũng đã sử dụng hết. Chủ đầu tư không còn khả năng hoàn trả cho người mua số tiền mà họ đã thanh toán cho bên bán cũng như các khoản tiền bồi thường thiệt hại, đồng nghĩa với việc, bên mua nhà không lấy lại được số tiền của mình. Một số ít trường hợp khác có thể nhận lại tiền nhưng đồng tiền mất giá. Việc thi hành án trở nên khó khăn khi đối với các thiệt hại này, pháp luật hiện nay chưa có biện pháp giải quyết quyền lợi của bên mua nhà một cách thực sự hợp lý.
(iv) Về nghĩa vụ bảo đảm chất lượng nhà ở hình thành trong tương lai. Thực tế cho thấy nhiều dự án người mua nhà được nhận nhà đúng thời hạn nhưng sản phẩm mà họ được nhận lại không giống với các thỏa thuận trong hợp đồng về thiết kế, diện tích, chất liệu, vật tư xây dựng của căn hộ hoặc thậm chí dẫn đến phát sinh các chi phí, nâng giá thành sản phẩm nhà ở lên cao. Pháp luật hiện hành cũng chưa có quy định cụ thể, thống nhất, gây hạn chế trong việc thực hiện nghĩa vụ hợp đồng.
Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về mua bán nhà ở hình thành trong tương lai
Một là, về chế tài cho việc xử lý vi phạm pháp luật trong kinh doanh bất động sản hình thành trong tương lai, để có thể đặt ra được mức phạt hợp lý đối với hành vi vi phạm cần xét đến hậu quả mà hành vi gây ra; phải quy định mức phạt theo tỷ lệ giá trị của nhà ở, công trình xây dựng hình thành trong tương lai là đối tượng của hợp đồng bị vi phạm; tăng mức phạt tiền lên gấp nhiều lần đối với hành vi huy động hoặc chiếm dụng vốn trái phép, sử dụng vốn huy động của tổ chức, cá nhân hoặc tiền ứng trước của bên mua, bên thuê, bên thuê mua bất động sản hình thành trong tương lai không đúng mục đích cam kết…
Hai là, về điều kiện chủ đầu tư được giao kết hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai. Giữa các quy định của Luật Kinh doanh bất động sản năm 2014 và Nghị định 99/2015/NĐ-CP hướng dẫn Luật Nhà ở năm 2014 hiện nay có sự mâu thuẫn trong việc xác định trách nhiệm và vai trò của cơ quan quản lý nhà nước là sở xây dựng khi tiếp nhận thông báo về một nhà ở hình thành trong tương lai thỏa mãn điều kiện được tham giao dịch. Quy định này gây khó khăn cho cả bên bán và bên mua, cần phải xem xét sửa đổi.
Ba là, liên quan đến các quy định bảo lãnh nhà ở hình thành trong tương lai, pháp luật nên quy định đây là một thủ tục được thực hiện sau khi các bên giao kết hợp đồng và nội dung bảo lãnh phải thống nhất với các nội dung trong hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai. Cần phải thắt chặt quy trình ký kết hợp đồng bảo lãnh giữa bên mua với ngân hàng, đồng thời xây dựng hệ thống chế tài xử phạt nghiêm khắc đối với các hành vi chậm cung cấp hoặc không cung cấp đầy đủ hồ sơ liên quan đến hợp đồng mua bán cho ngân hàng để hoàn thiện hồ sơ bảo lãnh cho bên mua, chế tài đối với ngân hàng trong trường hợp không phát hành chứng thư bảo lãnh cho từng bên mua nhà theo quy định hiện hành. Bên cạnh đó, pháp luật cần mở rộng phạm vi các đối tượng được thực hiện bảo lãnh cho các giao dịch mua bán nhà ở hình thành trong tương lai, bao gồm cả chi nhánh ngân hàng nước ngoài hay những tổ chức tín dụng khác nếu họ đủ tiềm lực và khả năng thực hiện các hoạt động này.
Bốn là, về vấn đề huy động vốn và bán sản phẩm của chủ đầu tư trong dự án bất động sản, cần xác định rõ trách nhiệm của chủ đầu tư và có nhiều biện pháp xử lý thật nghiêm khắc các hoạt động kinh doanh giao dịch trái pháp luật, đặc biệt đối với nhà ở xã hội để bảo vệ quyền lợi của khách hàng nói chung, người có thu nhập thấp nói riêng. Chủ thể kinh doanh và giao dịch bất động sản hình thành trong tương lai đòi hỏi phải huy động một lượng vốn rất lớn và ổn định trong thời gian dài. Do vậy, cần phải có các giải pháp để thúc đẩy mối quan hệ liên thông giữa thị trường tài chính với kinh doanh bất động sản và thị trường bất động sản để huy động vốn dài hạn cho kinh doanh. Cần phải xây dựng, hoàn thiện các chính sách pháp luật tài chính cho đầu tư bất động sản dài hạn: xây dựng, kiện toàn các cơ quan quản lý nhà nước về tài chính; phát triển các tổ chức tài chính, đẩy mạnh sự phát triển của các trung gian tài chính, khuyến khích đa dạng hóa sản phẩm tài chính bất động sản; phát triển các quỹ tín thác bất động sản, quỹ đầu tư bất động sản, quỹ phát triển nhà ở, quỹ tiết kiệm nhà…
Năm là, giao dịch kinh doanh bất động sản hình thành trong tương lai nhìn chung còn nhiều sự không bình đẳng về quyền và nghĩa vụ giữa doanh nghiệp kinh doanh bất động sản với khách hàng, gây thiệt hại về lợi ích cho khách hàng và ảnh hưởng đến môi trường kinh doanh. Do vậy, cần tăng cường các biện pháp kiểm tra, kiểm soát của các cơ quan có thẩm quyền đối với chủ thể kinh doanh; điều kiện giao dịch và hàng hóa bất động sản đưa vào giao dịch; các hợp đồng mẫu khi nhà đầu tư ký kết với khách hàng; đặc biệt tăng cường kênh thông tin cho khách hàng khi tham gia giao dịch.
Sáu là, Nhà nước cần đặc biệt chú trọng khuyến khích đầu tư vào lĩnh vực nhà ở xã hội, nhà ở cho người có thu nhập thấp. Kinh doanh và giao dịch mua, thuê mua nhà ở xã hội, nhà ở cho người thu nhập thấp cần có sự quan tâm, ưu đãi, ủng hộ đặc biệt của chính quyền địa phương, các ban ngành đoàn thể, các doanh nghiệp và người dân. Có nhiều ưu đãi trực tiếp về cơ chế quản lý, đơn giản về thủ tục hành chính, ưu đãi về tài chính tín dụng cho các đối tượng chính sách xã hội có thể tiếp cận mua, thuê mua nhà ở. Tạo điều kiện cho người có thu nhập thấp có nhiều cách để có thể mua nhà trả góp trong thời gian dài, nhằm giải quyết tốt vấn đề an sinh xã hội, giải quyết nhu cầu về nhà ở tối thiểu của người dân.
(1) Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân bán, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê mua bất động sản quy mô nhỏ, không thường xuyên thì không phải thành lập doanh nghiệp nhưng phải kê khai nộp thuế theo quy định của pháp luật. (2) Điều 67 Luật Kinh doanh bất động sản năm 2014. (3) Điều 57 Luật Kinh doanh bất động sản 2014. (4) Tiến sĩ Trần Huỳnh Thanh Nghị, Những điểm mới và thách thức trong thi hành Luật Kinh doanh bất động sản năm 2014, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, 02/2016. (5) Tiến sĩ Trần Huỳnh Thanh Nghị, tài liệu đã dẫn. (6) Gia Huy, Bắt bài lách luật huy động vốn, http://m.vietbao.vn/Nha-dat/Bat-bai-lach-luat-huy-dong-von/158313900/507/ (7) Khoản 2 Điều 4 Nghị định 139/2017/NĐ-CP. |
TIẾN SĨ NGUYỄN THỊ HỒNG NHUNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
3. Quy định về sơ tuyển, đăng ký xét tuyển vào các trường quân đội năm 2022
(LSVN) - Vừa qua, Ban Tuyển sinh quân sự Bộ Quốc phòng đã ban hành Hướng dẫn việc tổ chức xét tuyển thẳng, ưu tiên xét tuyển và xét tuyển học sinh giỏi bậc trung học phổ thông (THPT) vào đào tạo đại học, cao đẳng quân sự tại các học viện, trường trong quân đội năm 2022. Trong đó, quy định rõ về sơ tuyển, đăng ký xét tuyển vào các trường quân đội năm 2022.
Theo đó, thí sinh đăng ký xét tuyển thẳng, ưu tiên xét tuyển và xét tuyển học sinh giỏi bậc THPT phải qua sơ tuyển, có đủ tiêu chuẩn tuyển sinh về chính trị, đạo đức, văn hóa, độ tuổi, sức khỏe theo quy định của Bộ Quốc phòng.
Thí sinh phải có 2 loại hồ sơ: 1 bộ hồ sơ sơ tuyển và 1 bộ hồ sơ đăng ký xét tuyển thẳng (hoặc ưu tiên xét tuyển, xét tuyển HSG bậc THPT).
Thí sinh đã nộp hồ sơ sơ tuyển về trường đăng ký dự tuyển, nộp 01 bộ hồ sơ đăng ký xét tuyển thẳng, ưu tiên xét tuyển hoặc và xét tuyển học sinh giỏi bậc THPT tại Ban Tuyển sinh quân sự cấp huyện (quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh).
Thí sinh chưa nộp hồ sơ sơ tuyển phải tham gia sơ tuyển và nộp hồ sơ sơ tuyển cùng với hồ sơ đăng ký xét tuyển thẳng, ưu tiên xét tuyển hoặc và xét tuyển học sinh giỏi bậc THPT.
Thí sinh không qua sơ tuyển, không có hồ sơ sơ tuyển tại các trường thì không được tham gia xét tuyển thẳng, ưu tiên xét tuyển, xét tuyển học sinh giỏi bậc THPT vào đào tạo đại học, cao đẳng quân sự các trường trong Quân đội.
Thí sinh đăng ký xét tuyển và làm hồ sơ sơ tuyển tại Ban Tuyển sinh quân sự các huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh nơi thí sinh đăng ký hộ khẩu thường trú trước ngày 12/7/2022.
DUY ANH
Quy định xét tuyển thẳng, ưu tiên xét tuyển vào các trường quân đội năm 2022
4. Các trường hợp bị dừng phổ biến phim theo Luật Điện ảnh năm 2022
(LSVN) - Luật Điện ảnh năm 2022 quy định về hoạt động điện ảnh; quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động điện ảnh; quản lý nhà nước về điện ảnh. Trong đó luật đã bổ sung các trường hợp bị dừng phổ biến phim theo Luật Điện ảnh năm 2022.
Cụ thể, tại Điều 30 Luật Điện ảnh năm 2022 quy định cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định dừng phổ biến phim là cơ quan cấp Giấy phép phân loại phim, cơ quan tiếp nhận thông báo về nội dung, chương trình chiếu phim tại địa điểm chiếu phim công cộng hoặc cơ quan thanh tra theo quy định của Chính phủ.
Cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định dừng phổ biến phim bằng văn bản, trong đó nêu rõ lý do, thời điểm, thời hạn dừng phổ biến phim đối với một trong các trường hợp sau đây:
- Vi phạm quy định tại Điều 9 của Luật này;
- Vì lý do quốc phòng, an ninh, thiên tai, dịch bệnh hoặc tình trạng khẩn cấp.
Trường hợp có nhu cầu tiếp tục phổ biến phim, tổ chức gửi văn bản đề xuất việc tiếp tục phổ biến phim đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét, quyết định.
Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được văn bản đề xuất việc tiếp tục phổ biến phim, Cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét, quyết định và thông báo kết quả bằng văn bản đến tổ chức đã đề xuất việc phổ biến phim.
Tổ chức bị dừng phổ biến phim phải công bố công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng về việc dừng phổ biến phim và chịu trách nhiệm bảo đảm quyền lợi của tổ chức, cá nhân liên quan theo quy định của pháp luật.
PHƯƠNG HOA
Quy trình bãi nhiệm tư cách ĐBQH theo quy định pháp luật?
5. Bổ sung hình thức nộp hồ sơ đăng ký quyền tác giả
(LSVN) - Vừa qua, Quốc hội đã thông qua tại Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ ban hành ngày 16/6/2022. Đáng chý ý là luật đã quy định bổ sung hình thức nộp hồ sơ đăng ký quyền tác giả.
Theo đó, khoản 1 Điều 50 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 đã được sửa đổi, bổ sung bởi Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi 2022 quy định về hồ sơ đăng ký quyền tác giả, đăng ký quyền liên quan. Cụ thể, tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả, chủ sở hữu quyền liên quan có thể trực tiếp hoặc ủy quyền cho tổ chức, cá nhân khác nộp hồ sơ đăng ký quyền tác giả, đăng ký quyền liên quan theo cách thức trực tiếp, qua dịch vụ bưu chính hoặc qua Cổng dịch vụ công trực tuyến cho cơ quan quản lý nhà nước về quyền tác giả, quyền liên quan.
Trước đây, khoản 1 Điều 5 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 quy định các hình thức nộp đơn đăng ký quyền tác giả, quyền liên quan gồm: Nộp trực tiếp hoặc uỷ quyền cho tổ chức hoặc cá nhân khác nộp đơn đăng ký.
Như vậy, so với trước, Luật mới đã bổ sung thêm hình thức nộp hồ sơ qua Cổng dịch vụ công trực tuyến hoặc dịch vụ bưu chính đăng ký quyền tác giả, quyền liên quan.
Ngoài ra, trong hồ sơ đăng ký quyền tác giả, quyền liên quan tại khoản 2 Điều 50 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 sửa đổi năm 2022 cũng bổ sung thêm một số nội dung như:
- Thời gian hoàn thành;
- Thông tin về cấp lại, cấp đổi (nếu có);
Đặc biệt, chính tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả, quyền liên quan phải ký tên hoặc điểm chỉ vào tờ khai đăng ký quyền tác giả, quyền liên quan trừ trường hợp không có khả năng về thể chất để ký tên hoặc điểm chỉ. Đây là quy định mới được bổ sung so với quy định hiện hành.
TIẾN ANH
6.
THỨ 5
Chiều
1. Vụ phá nát ruộng dưa hấu của ông cụ 70 tuổi: Các đối tượng có thể xử lý về hai tội danh
(LSVN) -
Cụ Tôn nằm vật khóc giữa vườn dưa bị phá giữa trưa nắng. Ảnh: Cắt từ clip.
Bắt 5 đối tượng phá nát ruộng dưa hấu của ông cụ 70 tuổi
Trước đó, vào ngày 03/7, mạng xã hội lan truyền hình ảnh và đoạn video ghi lại cảnh cụ ông ở xã Diễn Kỷ, huyện Diễn Châu (Nghệ An) nằm vật lộn, khóc ròng trên ruộng dưa hấu nghi bị kẻ gian phá hoại.
Theo thông tin từ Công an huyện Diễn Châu (tỉnh Nghệ An) cho biết đơn vị đã điều tra, làm rõ 5 đối tượng thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, huỷ hoại tài sản gồm: Chu Văn Cường (SN 2002); Chu Minh Nam (SN 2004); Nguyễn Đức Phong (SN 2004); Lê Trung Huấn (SN 2004) và Nguyễn Trọng Tấn (SN 2005) cùng trú tại huyện Quỳnh Lưu.
Quá trình điều tra, theo lực lượng chức năng, vào trưa 02/7, các đối tượng trộm dưa hấu của gia đình ông Tôn thì bị phát hiện và được người dân nhắc nhở. Tuy nhiên, các đối tượng tỏ thái độ bực tức và sau khi đi uống rượu về, đến trưa ngày 03/7, các đối tượng quay lại ruộng dưa hấu của gia đình ông Tôn phá ruộng nhằm trả thù.
Công an huyện Diễn Châu đang tập trung điều tra xử lý theo quy định.
Có thể xử lý về hai tội danh
Dưới góc độ pháp lý, Tiến sĩ, Luật sư Đặng Văn Cường, Trưởng Văn phòng Luật sư Chính pháp cho biết hành vi của nhóm đối tượng này thể hiện tính chất nguy hiểm, manh động, coi thường pháp luật, gây bức xúc trong xã hội. Theo đó, các hành vi này có thể sẽ bị xử lý hình sự về hai tội danh là "Trộm cắp tài sản" và "Hủy hoại tài sản" nếu tài sản bị thiệt hại trị giá từ 2.000.000 đồng trở lên.
Pháp luật Việt Nam ghi nhận, bảo đảm và bảo vệ quyền sở hữu tài sản của mọi công dân. Hành vi lén lút để lấy tài sản hoặc hủy hoại, cố ý làm hư hỏng tài sản là hành vi vi phạm pháp luật. Nếu chiếm đoạt hoặc hủy hoại tài sản từ 2.000.000 đồng trở lên thì người thực hiện hành vi này sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội "Trộm cắp tài sản", tội "Hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản" theo quy định của Bộ luật Hình sự.
Đối với hành vi là trộm cắp tài sản, các đối tượng trộm dưa hấu của gia đình ông Tôn, nếu tài sản trị giá từ 2.000.000 đồng trở lên thì hành vi này sẽ bị xử lý hình sự. Trường hợp trị giá tài sản dưới 2.000.000 đồng thì các đối tượng này sẽ bị xử phạt hành chính theo quy định tại Nghị định số 144/2021/NĐ-CP về xử phạt hành chính trong lĩnh vực an ninh trật tự, an toàn xã hội.
Trường hợp kết quả xác minh cho thấy những quả dưa mà các đối tượng này đã trộm cấp trị giá từ 2.000.000 đồng trở lên thì cơ quan điều tra sẽ khởi tố vụ án hình sự về tội "Trộm cắp tài sản" để xử lý với nhóm đối tượng này theo quy định tại Điều 173 Bộ luật Hình sự.
Điều 173. Tội trộm cắp tài sản 1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm: a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm; b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 174, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm; c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội; d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ; đ) Tài sản là di vật, cổ vật. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm: a) Có tổ chức; b) Có tính chất chuyên nghiệp; c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng; d) Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm; đ) Hành hung để tẩu thoát; e) Tài sản là bảo vật quốc gia; g) Tái phạm nguy hiểm. 3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm: a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng; b) Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh. 4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm: a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên; b) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp. |
Đối với hành vi hủy hoại tài sản, cơ quan điều tra cũng sẽ làm rõ giá trị những quả dưa bị đập phá trong 03/7 như thế nào. Trong trường hợp số dưa bị đập phá làm hư hỏng trị giá từ 2.000.000 đồng trở lên thì cơ quan điều tra tiếp tục khởi tố các đối tượng này về tội "Hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản" theo quy định tại Điều 178 Bộ luật Hình sự.
Theo quy định của pháp luật thì người từ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự với mọi loại tội phạm. Vì vậy nếu hành vi thỏa mãn dấu hiệu cấu thành tội phạm thì các đối tượng này đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên với đối tượng chưa đủ 18 tuổi thì sẽ bị được áp dụng chính sách về người dưới 18 tuổi phạm tội, theo đó hình phạt trong trường hợp bị kết án sẽ không quá ¾ mức hình phạt đối với người đã thành niên.
Vụ việc này sẽ là bài học cho những thanh niên đua đòi, đàn đúm bạn bè, thiếu ý thức tu dưỡng rèn luyện đạo đức.
TIẾN ĐẠT
Tòa án xét xử kín trong trường hợp nào?
6. Điều kiện để Công an xã được quyền đăng ký, cấp biển số xe máy
(LSVN) -
Tại khoản 6 Điều 3 Thông tư 58/2020/TT-BCA, được sửa bởi Thông tư 15/2022/TT-BCA quy định rõ Công an xã, phường, thị trấn (sau đây viết gọn là Công an cấp xã) đăng ký, cấp biển số xe mô tô, xe gắn máy (kể cả xe máy điện) của cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, doanh nghiệp quân đội, cá nhân trong nước có trụ sở hoặc nơi thường trú tại địa phương mình và cơ quan, tổ chức, cá nhân người nước ngoài, của dự án, tổ chức kinh tế liên doanh với nước ngoài tại địa phương mình; tổ chức thu hồi giấy chứng nhận đăng ký, biển số xe hết niên hạn sử dụng, xe hỏng không sử dụng được của cơ quan, tổ chức, cá nhân có trụ sở hoặc nơi thường trú tại địa phương.
Điều kiện, thẩm quyền đăng ký, cấp biển số xe của Công an cấp xã thực hiện theo quy định tại khoản 6 Điều 26 Thông tư này. Cụ thể, căn cứ vào điều kiện cơ sở vật chất, hạ tầng công nghệ thông tin tại địa phương, Giám đốc Công an tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quyết định sau khi thống nhất với Cục Cảnh sát giao thông:
- Thực hiện phân cấp đăng ký xe mô tô, xe gắn máy (kể cả xe máy điện) và các loại xe có kết cấu tương tự xe nêu trên cho Công an cấp huyện, thời gian hoàn thành trước ngày 31/12/2022.
- Thực hiện phân cấp đăng ký, biển số xe ô tô, xe máy kéo, rơmoóc, sơ mi rơmoóc và các loại xe có kết cấu tương tự xe nêu trên cho Công an cấp huyện; thời gian hoàn thành trước ngày 31/12/2022.
- Thực hiện phân cấp đăng ký, biển số xe mô tô, xe gắn máy (kể cả xe máy điện) và các loại xe có kết cấu tương tự xe nêu trên cho Công an cấp xã có số lượng trung bình 03 năm liền kề gần nhất, đã đăng ký mới từ 250 xe mô tô, xe gắn máy (kể cả xe máy điện) trở lên trong 01 năm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có trụ sở hoặc nơi thường trú tại địa bàn cấp xã (trừ các quận, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương; các thành phố thuộc tỉnh nơi Phòng Cảnh sát giao thông đặt trụ sở và cấp xã nơi Công an cấp huyện đặt trụ sở).
- Thực hiện thu hồi giấy chứng nhận đăng ký, biển số xe hết niên hạn sử dụng, xe hỏng không sử dụng được trên Cổng Dịch vụ công Bộ Công an, Cổng Dịch vụ công quốc gia, thời gian hoàn thành trước ngày 31/12/2022.
Như vậy, xã nào mà trong 03 năm gần nhất có số lượng xe mô tô, xe gắn máy (kể cả xe máy điện) đã đăng ký mới của cá nhân đăng ký thường trú; cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp đặt trụ sở trên địa bàn từ xã đó từ 250 xe trở lên/năm thì công an xã sẽ được giao quyền cấp đăng ký, biển số xe máy.
Với những xã không đủ điều kiện để được cấp biển số xe theo quy định tại Thông tư 15/2022/TT-BCA thì việc đăng ký, cấp biển số xe sẽ được giải quyết tại Công an cấp huyện.
TIẾN HƯNG
Quy trình bãi nhiệm tư cách ĐBQH theo quy định pháp luật?
7. B có phạm tội ‘Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy’?
(LSVN) - B có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy bị Công an bắt quả tang. Hành vi của B có phạm tội “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy” hay không? Tình huống này hiện có những quan điểm giải quyết khác nhau.
B là một đối tượng nghiện ma túy lâu năm. Vào ngày 20/10/2021 đối tượng B, sinh năm 1995 đang sử dụng ma tuý tại nhà mình (nhà của B do B đứng tên và quản lý) thì có 04 bạn nghiện đến chơi, thấy B có ma tuý và các dụng cụ sử dụng ma tuý ở đó nên 04 đối tượng này cùng vào sử dụng chung với B. Vì là bạn bè nên B đồng ý cho tất cả cùng sử dụng ma tuý tại nhà mình. Đang trong quá trình sử dụng ma tuý thì các đối tượng này bị lực lượng Công an bắt quả tang, thu giữ các dụng cụ sử dụng ma tuý và các mảnh giấy bạc (theo giám định là có bám dính ma tuý MDMA - không xác định được khối lượng do còn quá ít).
Thực tiễn vụ án trên ta thấy Nguyễn Văn B mua ma tuý về chỉ để sử dụng và không có mục đích khác, lượng ma túy thu giữ không đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, do đó trong trường hợp này chỉ xem xét đến việc hành vi nêu trên của B có phạm tội “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma tuý” theo Điều 256 Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 2015 hay không?
Về vụ việc này có một số quan điểm sau đây:
Quan điểm thứ nhất: Hành vi nêu trên của B không phạm tội “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma tuý” vì theo Điều 256 BLHS năm 2015 thì tội “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy” quy định như sau:
“1. Người nào cho thuê, cho mượn địa điểm hoặc có bất kỳ hành vi nào khác chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 255 của Bộ luật này, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm”.
Mặt khác, đối chiếu với Điều 256 BLHS năm 2015 ta thấy ngôi nhà là của B, do B đứng tên và quản lý. B biết 04 đối tượng là bạn nghiện của mình bị nghiện ma tuý nhưng B vẫn đồng ý (ý thức chủ quan) để họ trực tiếp sử dụng trái phép chất ma túy nhằm thỏa mãn nhu cầu của họ. Hành vi này của B đã đủ yếu tố cấu thành tội “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy” theo Điều 256 BLHS năm 2015.
Tuy nhiên, theo hướng dẫn tại điểm b tiết 7.3 mục 7 Phần II Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP ngày 24/12/2007 của Bộ Công an, Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao, Tòa án nhân dân Tối cao, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XVIII “Các tội phạm về ma túy” của Bộ luật hình sự năm 1999 như sau: “b) Người nghiện ma túy cho người nghiện ma túy khác cùng sử dụng trái phép chất ma túy tại địa điểm thuộc quyền sở hữu. chiếm hữu hoặc quản lý của mình thì không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy....”. Tuy nhiên tại Điều 3 Thông tư liên tịch 08/2015/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP ngày 14 tháng 11 năm 2015 đã bãi bỏ điểm b tiết 7.3 mục 7 Phần II Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT. “Thông tư liên tịch này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 30 tháng 12 năm 2015. Bãi bỏ các hướng dẫn tại điểm đ tiết 3.7 mục 3 Phần II; điểm b tiết 7.3 mục 7 Phần II, mục 8 Phần II của Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT”.
Đối chiếu theo quy định của điểm b tiết 7.3 mục 7 Phần II Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT thì hành vi của B không phạm tội “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma tuý” vì B là người nghiện ma túy và cùng cho người khác sử dụng ma tuý tại nhà mình nên không phạm tội này. Tuy nhiên, theo Thông tư liên tịch 08/2015/TTLT đã bãi bỏ hướng dẫn tại điểm b tiết 7.3 mục 7 Phần II Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT nhưng vẫn chưa có hướng dẫn nào thay thế hướng dẫn nên theo nguyên tắc có lợi thì hành vi của B không phạm tội “Tội chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy”.
Vì vậy, ở quan điểm này hành vi của B không phạm tội “Tội chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy”.
Quan điểm thứ hai đây cũng là quan điểm của các tác giả cho rằng: Hành vi nêu trên của B đã phạm tội “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy” theo Điều 256 BLHS năm 2015.
Theo phân tích ở quan điểm thứ nhất ta thấy về chủ thể, khách thể, mặt khách quan, chủ quan của B thì đã đủ yếu tố cấu thành tội phạm “Tội chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy” theo Điều 256 BLHS năm 2015.
Tuy theo hướng dẫn tại điểm b tiết 7.3 mục 7 Phần II Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT thì hành vi của B không phạm “Tội chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy” vì B nghiện ma tuý và cùng cho người khác sử dụng tại nhà mình. Qua thực tiễn xử lý các tội về ma tuý, đặc biệt là tội chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy thì quy định tại điểm b tiết 7.3 mục 7 Phần II Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT là một bất cập, quy định như vậy rất khó có thể xử lý hình sự các đối tượng tổ chức, chứa chấp sử dụng trái phép chất ma túy vì hầu hết trong số này là người nghiện. Sau khi bị bắt lại được thả khiến các cá nhân vi phạm coi thường pháp luật, dễ tái phạm. Đây cũng là một trong những nguyên nhân gây gia tăng người nghiện ma túy tổng hợp và xuất hiện ngày càng nhiều các trường hợp “ngáo đá”.
Từ thực tiễn trên nên tại Điều 3 Thông tư liên tịch 08/2015/TTLT đã bãi bỏ điểm b tiết 7.3 mục 7 Phần II Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT. Do đó trong trường hợp của B ta chỉ cần đối chiếu với hành vi của B với Điều 256 BLHS năm 2015 quy định:
“1. Người nào cho thuê, cho mượn địa điểm hoặc có bất kỳ hành vi nào khác chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 255 của Bộ luật này, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm”.
Do vậy, hành vi của B đã thỏa mãn cấu thành tội phạm của tội chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy, không có văn bản nào hướng dẫn loại trừ trách nhiệm hình sự của B.
Từ những phân tích, lập luận nêu trên, quan điểm của chúng tôi cho rằng hành vi của B đã phạm vào “Tội chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy” theo điểm d khoản 2 Điều 256 BLHS 2015.
Xin được trao đổi và mong nhận được nhiều ý kiến tranh luận của đồng nghiệp và bạn đọc./.
NGUYỄN PHI HÙNG
Toà án Quân sự Quân khu 4
TP. HCM triển khai tổ chức tiêm vaccine Covid-19 mũi 4 cho người dân
14. Những hành vi bị nghiêm cấm trong hoạt động điện ảnh
(LSVN) - Vừa qua, Quốc hội đã chính thức thông qua Luật Điện ảnh số 05/2022/QH15. Vậy theo quy định của Luật mới này, những hành vi bị nghiêm cấm trong hoạt động điện ảnh?
Căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 9 Luật Điện ảnh, pháp luật nghiêm cấm thực hiện các hành vi sau đây:
- Phát hành, phổ biến phim trong rạp chiếu phim, trên hệ thống truyền hình và địa điểm chiếu phim công cộng mà không có Giấy phép phân loại phim của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về điện ảnh (sau đây gọi là Giấy phép phân loại phim) hoặc Quyết định phát sóng của cơ quan báo chí có giấy phép hoạt động truyền hình (sau đây gọi là Quyết định phát sóng);
- Phổ biến phim trên không gian mạng mà không phân loại, hiển thị kết qua phân loại phim theo quy định của Luật này;
- Thay đổi, làm sai lệch nội dung phim và kết quả phân loại phim đối với phim đã được cấp Giấy phép phân loại phim hoặc Quyết định phát sóng;
- Sản xuất, phát hành, phổ biến phim, lưu chiểu, lưu trữ phim không tuân thủ quy định của Luật này, Luật Sở hữu trí tuệ và quy định khác của pháp luật có liên quan;
- Phát hành, phổ biến phim đã có quyết định thu hồi Giấy phép phân loại phim hoặc Quyết định phát sóng;
- Sao chép phim khi chưa được sự đồng ý của chủ sở hữu phim, trừ trường hợp Luật sở hữu trí tuệ có quy định khác;
- Không thông báo cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi thực hiện phổ biến phim tại địa điểm chiếu phim công cộng;
- Thẩm định, cấp Giấy phép phân loại phim trái quy định của pháp luật.
Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2023.
HỒNG HẠNH
Từ ngày 01/7/2022 sẽ chuyển đổi sang hệ thống đấu thầu mới
Gửi thông báo về hành vi vi phạm của cán bộ, công chức cho cơ quan quản lý để xử lý có phù hợp hay không?
Hiện nay, lực lượng Cảnh sát giao thông (CSGT) toàn quốc đang đồng loạt triển khai cao điểm kiểm tra, xử lý vi phạm trên các tuyến giao thông để kịp thời ngăn chặn các hành vi vi phạm là nguyên nhân chính dẫn đến tai nạn giao thông (TNGT).
Đợt cao điểm kéo dài trong 3 tháng (từ 20/6-20/9/2022) để tập trung xử lý các vi phạm như nồng độ cồn, tốc độ, quá tải, cơi nới thành thùng... Đặc biệt, trong đợt cao điểm này, các trường hợp là đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang,… (gọi chung là CBCC) vi phạm, lực lượng CSGT làm nhiệm vụ phải gửi thông báo về cơ quan quản lý để có biện pháp xử lý theo quy định.
Việc CSGT gửi thông báo về cơ quan quản lý CBCC để có biện pháp xử lý theo quy định còn nhiều ý kiến băn khoăn, cho rằng, việc gửi thông báo như vậy có đúng quy định của pháp luật hay không?.
Theo Quy định số 37-QĐ/TW ngày 25/10/2021 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về những điều đảng viên không được làm, trong đó, nghiêm cấm đảng viên làm những việc mà pháp luật không cho phép (Điều 1); khoản 4 Điều 8 Luật Cán bộ, công chức năm 2008 quy định về nghĩa vụ của công chức: "Chấp hành nghiêm chỉnh đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước". Như vậy, CBCC phải có nghĩa vụ chấp hành nghiêm chỉnh đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
Do đó, khi CBCC vi phạm pháp luật giao thông tức là không chấp hành pháp luật, ngoài việc bị xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật giao thông đường bộ, còn phải bị xem xét xử lý kỷ luật theo quy định của Đảng, Nhà nước. Chính vì vậy, việc CSGT khi xử lý hành vi vi phạm pháp luật giao thông đường bộ đối với CBCC còn phải gửi thông báo về cơ quan quản lý để có biện pháp xử lý theo quy định, đây là không phải là quyền của CSGT mà nó là trách nhiệm của CSGT. Trách nhiệm ở đây là phải thông báo hành vi vi phạm của CBCC cho cơ quan quản lý biết, xử lý, giáo dục theo quy định.
Tuy nhiên, có một thực tế hiện nay, tình trạng CBCC vi phạm pháp luật giao thông đường bộ vẫn thường xuyên xảy ra, nhất là vi phạm nồng độ cồn. Khi lực lượng chức năng dừng phương tiện để kiểm tra, xử lý thì đa số CBCC đều né tránh việc khai chính xác nghề nghiệp của mình trong biên bản vi phạm hành chính. Do đó, nhiều trường hợp, CBCC bị xử phạt về nồng độ cồn nhưng CSGT không biết hoặc không tiến hành xác minh, làm rõ nghề nghiệp của người vi phạm. Cho nên, việc gửi thông báo đối với hành vi vi phạm của CBCC cho cơ quan quản lý biết, xử lý vẫn còn hạn chế.
Bên cạnh đó, các hành vi vi phạm giao thông đều xuất phát từ 02 yếu tố lỗi, đó là lỗi vô ý và lỗi cố ý. Khi đã là lỗi vô ý thì bất cứ ai cũng đều có thể vi phạm, như hành vi thiếu quan sát nên đi vào đường ngược chiều; chạy quá tốc độ cho phép; quên mang giấy tờ,… Đối với các lỗi này, nếu CBCC vi phạm thì CSGT không cần thiết phải gửi thông báo cho cơ quan quản lý CBCC biết.
Tuy nhiên, đối với lỗi cố ý như: vi phạm nồng độ cồn, chống người thi hành công vụ; không chấp hành hiệu lệnh của CSGT; phóng nhanh, vượt ẩu; gây tai nạn giao thông ở mức nghiêm trọng trở lên;… thì CSGT phải kiên quyết xử lý nghiêm; đồng thời, căn cứ thông tin của người vi phạm trên thẻ căn cước công dân để xác minh cụ thể, chính xác nghề nghiệp của người vi phạm. Nếu người vi phạm là CBCC thì phải gửi thông báo hành vi vi phạm của CBCC cho cơ quan quản lý biết, xử lý theo đúng quy định. Mặt khác, cơ quan quản lý CBCC sau khi nhận thông báo của CSGT phải có trách nhiệm xem xét, xử lý và thông báo kết quả để CSGT được biết./.
ĐỖ VĂN NHÂN