Bàn về việc Hội đồng xét xử trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung cho Viện kiểm sát khi hết thời hạn tạm giam

01/10/2024 22:05 | 4 ngày trước

(LSVN) – Trong các biện pháp ngăn chặn, tạm giam là biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc nhất nên thời hạn áp dụng cũng được quy định chặt chẽ và tương ứng trong từng giai đoạn tố tụng. Nếu ở giai đoạn điều tra, truy tố và chuẩn bị xét xử sơ thẩm, việc quy định thời hạn tạm giam tùy thuộc vào từng loại tội phạm thì ở giai đoạn xét xử phúc thẩm, thời hạn tạm giam trong giai đoạn chuẩn bị xét xử và thời hạn tạm giam để bảo đảm thi hành án căn cứ vào cấp Tòa án có thẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án hình sự. Tuy nhiên, thực tiễn xét xử việc áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam trong một số trường hợp còn có nhiều khó khăn, vướng mắc và nhiều cách hiểu chưa thống nhất.

Ảnh minh hoạ. 

Tạm giam là biện pháp ngăn chặn được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) do Cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án áp dụng đối với bị can, bị cáo về tội rất nghiêm trọng; phạm tội đặc biệt nghiêm trọng. Ngoài ra, trường hợp bị can, bị cáo về tội nghiêm trọng hoặc tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật Hình sự (BLHS) quy định hình phạt tù trên 2 năm và có căn cứ xác định người đó ở vào một trong các trường hợp sau:“Đã bị áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng vi phạm; không có nơi cư trú rõ ràng hoặc không xác định được lý lịch của bị can; Bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã hoặc có dấu hiệu bỏ trốn; tiếp tục phạm tội hoặc có dấu hiệu tiếp tục phạm tội; có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này. Ngoài ra, Tạm giam có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo về tội ít nghiêm trọng mà BLHS quy định hình phạt tù đến 02 năm nếu họ tiếp tục phạm tội hoặc bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã” (khoản 2, 3 Điều 119 BLTTHS). Khi phạm tội thuộc những trường hợp trên các bị can, bị cáo áp dụng bị áp dụng biện pháp tạm giam.

Trong các biện pháp ngăn chặn, tạm giam là biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc nhất nên thời hạn áp dụng cũng được quy định chặt chẽ và tương ứng trong từng giai đoạn tố tụng. Nếu ở giai đoạn điều tra, truy tố và chuẩn bị xét xử sơ thẩm, việc quy định thời hạn tạm giam tùy thuộc vào từng loại tội phạm thì ở giai đoạn xét xử phúc thẩm, thời hạn tạm giam trong giai đoạn chuẩn bị xét xử và thời hạn tạm giam để bảo đảm thi hành án căn cứ vào cấp Tòa án có thẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án hình sự. Tuy nhiên, thực tiễn xét xử việc áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam trong một số trường hợp còn có nhiều khó khăn, vướng mắc và nhiều cách hiểu chưa thống nhất.

Khó khăn, vướng mắc

Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 280 BLTTHS năm 2015 thì Tòa án trả hồ sơ cho Viện kiểm sát khi thiếu chứng cứ quy định tại Điều 85 của BLTTHS năm 2015 mà không thể bổ sung tại phiên tòa được, tức là chỉ khi thiếu chứng cứ mà đến phiên tòa mới phát hiện và Hội đồng xét xử xác định không thể bổ sung được trong quá trình xét hỏi công khai tại phiên tòa thì Tòa án mới trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung và thời hạn tạm giam của bị cáo hết vào ngày xét xử. Như vậy, khi trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung cho Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử có quyền bắt tạm giam bị cáo để phục vụ cho việc trả hồ sơ điều tra bổ sung hay không?

Về vấn đề này, Tòa án nhân dân Tối cao (TANDTC) có Công văn số 01/2017/GĐ-TANDTC giải đáp một số vấn đề vướng mắc về nghiệp vụ của Tòa án nhân dân, Tòa án quân sự các cấp và các đơn vị trực thuộc TANDTC như sau: Theo quy định tại Điều 177 và khoản 1 Điều 228 BLTTHS năm 2003 thì: “Thời hạn tạm giam để chuẩn bị xét xử không được quá thời hạn chuẩn bị xét xử quy định tại Điều 176 của Bộ luật này. Đối với bị cáo đang bị tạm giam mà đến ngày mở phiên tòa thời hạn tạm giam đã hết; nếu xét thấy cần tiếp tục tạm giam để hoàn thành việc xét xử, thì Tòa án ra lệnh tạm giam cho đến khi kết thúc phiên tòa”. “Đối với bị cáo đang bị tạm giam mà bị phạt tù nhưng đến ngày kết thúc phiên tòa thời hạn tạm giam đã hết thì Hội đồng xét xử ra quyết định tạm giam bị cáo để bảo đảm việc thi hành án, trừ trường hợp được quy định tại khoản 4 và khoản 5 Điều 227 của Bộ luật này”. Theo đó, Hội đồng xét xử chỉ được ra lệnh tạm giam cho đến khi kết thúc phiên tòa hoặc ra quyết định bắt tạm giam bị cáo sau khi tuyên án để bảo đảm việc thi hành án.

Đối với trường hợp Hội đồng xét xử quyết định trả hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung là đã kết thúc phiên tòa nên Hội đồng xét xử không có quyền tạm giam bị cáo để hoàn thành việc xét xử. Hội đồng xét xửcũng không có quyền bắt tạm giam bị cáo để phục vụ cho việc trả hồ sơ điều tra bổ sung. Sau khi Hội đồng xét xử quyết định trả hồ sơ cho Viện kiểm sát điều tra bổ sung thì quyết định này (kèm hồ sơ vụ án) phải được gửi cho Viện kiểm sát có thẩm quyền. Cho nên, việc áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn sau khi Hội đồng xét xử quyết định trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung là thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát. Để tránh bị động trong việc kiểm đếm hồ sơ trả cho Viện kiểm sát, khi xây dựng kế hoạch xét xử, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa phải dự kiến được những công việc cần phải làm và chủ động phối hợp với Viện kiểm sát để giải quyết vụ án theo đúng quy định của pháp luật.

Như vậy, căn cứ vào hướng dẫn trên thấy rằng trong trường hợp Hội đồng xét xử trả hồ hồ sơ cho Viện kiểm sát điều tra bổ sung thì quyết định này (kèm hồ sơ vụ án) phải được gửi cho Viện kiểm sát có thẩm quyền và không có quyền bắt tạm giam bị cáo để phục vụ cho việc trả hồ sơ điều tra bổ sung. Tuy nhiên, nghiên cứu khoản 3 Điều 280 BLTTHS quy định: “Quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung phải ghi rõ những vấn đề cần điều tra bổ sung và gửi cho Viện kiểm sát kèm theo hồ sơ vụ án trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày ra quyết định”. Nếu căn cứ theo hướng dẫn của Công văn số 01/2017/GĐ-TANDTC thì quy định tại khoản 3 Điều 280 BLTTHS không có ý nghĩa, vì Hội đồng xét xử khi quyết định trả hồ sơ cho Viện kiểm sát điều tra bổ sung thì quyết định này (kèm hồ sơ vụ án) phải được gửi cho Viện kiểm sát có thẩm quyền.

Hướng dẫn trên phù hợp trong trường hợp vụ án không phức tạp, hồ sơ ít, mối quan hệ phối hợp giữa các cơ quan tố tụng tốt; còn đối với trường hợp những vụ án phức tạp, hồ sơ nhiều bút lục, xét xử nhiều ngày, trong quá trình giải quyết có tranh chấp về quan điểm, nên không tránh khỏi những căng thẳng trong quan hệ phối hợp. Nếu Viện kiểm sát không thiện chí, phối hợp vì cho rằng chưa nhận đủ hồ sơ vụ án (do chưa hoàn thiện kịp hồ sơ sau khi ra quyết định) nên không có trách nhiệm áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam thì rõ ràng hướng dẫn trên gây nhiều khó khăn cho Tòa án trong thực tiễn xét xử. Thực tiễn xét xử  việc áp dụng quy định vẫn chưa thống nhất giữa các Tòa án trong quá trình giải quyết vụ án, có Tòa án vẫn ra quyết định tạm giam 03 ngày để hoàn thiện hồ sơ và bàn giao cho Viện kiểm sát khi quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung.

Kiến nghị hoàn thiện

Việc áp dụng biện pháp tạm giam theo quy định của BLTTHS năm 2015 sẽ xâm phạm trực tiếp đến thân thể, quyền tự do đi lại của người bị buộc tội nên được pháp luật tố tụng hình sự quy định chặt chẽ, phù hợp với các yêu cầu của các Công ước quốc tế. Thực tiễn thi hành BLTTHS năm 2015 và các văn bản hướng dẫn thời gian qua cho thấy, còn một số khó khăn, vướng mắc về việc áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam nhất là khi Hội đồng xét xử trả hồ sơ cho Viện kiểm sát điều tra bổ sung có sự chưa phù hợp giữa BLTTHS và văn bản hướng dẫn. Nên thực tiễn xét xử gây ra một số khó khăn, vướng mắc và việc áp dụng áp dụng pháp luật ở một số Tòa án không thống nhất.

Nhằm tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc nêu trên, để đảm bảo việc xét xử vụ án hình sự, biện pháp tạm giam đúng quy định và áp dụng thống nhất, đồng thời đảm bảo quyền con người, quyền công dân, tác giả kiến nghị liên ngành Tư pháp trung ương cần sớm có văn bản hướng dẫn nội dung trên.

 Thạc sĩ NGUYỄN VĂN HUY

Tòa án quân sự Khu vực 1 Quân khu 5

                           

Từ khoá : lsvn.vn LSVN