Cần làm rõ một số quy định về thừa kế thế vị trong Bộ luật Dân sự 2015

04/10/2022 15:08 | 1 năm trước

(LSVN) - Thừa kế thế vị là một trong những nội dung quan trọng của chế định thừa kế được quy định hoàn thiện nhất trong Bộ luật Dân sự năm 2015. Thừa kế thế vị xảy ra nhiều trong thực tế cuộc sống. Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng pháp luật còn những vấn đề chưa rõ ràng, chưa được thống nhất.

Ảnh minh họa.

1. Một số quy định chung về thừa kế thế vị trong Bộ luật Dân sự 2015.

Thừa kế thế vị được hiểu là việc các chủ thể luật định thay thế ai đó để được hưởng phần di sản mà đáng lẽ ra người đó được hưởng. Điều 652, Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Trường hợp con của người để lại di sản chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống”.

Theo đó, khái niệm thừa kế thế vị được hiểu như sau: Thừa kế thế vị là việc các con (cháu, chắt) được thay thế vào vị trí của bố hoặc mẹ (ông, bà) để hưởng di sản của ông, bà (hoặc cụ). Những người thừa kế thế vị được hưởng phần di sản mà bố mẹ mình (ông hoặc bà) đáng lẽ được hưởng nếu còn sống, được chia đều di sản với những người thừa kế khác.

Trong quan hệ thừa kế thế vị, di sản được dịch chuyển từ người để lại di sản đến người thụ hưởng trải qua bốn thế hệ, từ các cụ đến chắt. Khi di sản dịch chuyển theo loại thừa kế này, những người liên quan đều có một tên gọi để phân biệt vị trí của từng người trong quan hệ thừa kế. Theo đó, khi con của người để lại di sản chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản mà cha, mẹ của cháu được hưởng khi còn sống. Ở đây, “cha hoặc mẹ của cháu” là người được thừa kế theo pháp luật của người để lại di sản nhưng do không tồn tại vào thời điểm mở thừa kế nên không được hưởng di sản, mà “cháu” sẽ là người thay thế “cha hoặc mẹ” để nhận di sản từ người để lại di sản; Nếu cháu cũng chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản, con hoặc cháu của người để lại di sản nếu còn sống. Và người thế vị trí được hiểu là cháu hoặc chắt của người để lại di sản và là người thay thế vị trí của người được thế vị để nhận di sản từ người để lại di sản lẽ ra người được thế vị được hưởng nếu còn sống.

Thừa kế thế vị là việc con thay thế vị trí của bố hoặc mẹ nhận di sản thừa kế từ ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, cụ nội, cụ ngoại nếu bố mẹ đã chết hoặc chết cùng thời điểm với những người này.

Phần di sản mà người con được hưởng trong di sản của người để lại thừa kế nói trên là phần di sản mà bố hoặc mẹ của họ được hưởng nếu còn sống vào thời điểm mở thừa kế. Vì vậy, điều kiện để được hưởng thừa kế thế vị gồm:

Một là, con của người để lại di sản chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người để lại di sản (cháu được thừa kế thế vị); cháu cũng chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người để lại di sản (chắt được thừa kế thế vị). Như vậy, điều kiện đầu tiên làm phát sinh quan hệ thừa kế thế vị đó là phải xảy ra sự kiện cha hoặc mẹ của cháu hoặc của chắt chết trước hoặc chết cùng vào một thời điểm với ông, bà (nội, ngoại) hoặc các cụ (nội, ngoại).

Hai là, những người thừa kế thế vị phải là người có quan hệ thuộc hàng thừa kế thứ nhất và người thế vị luôn ở vị trí đời sau, tức là chỉ có con thế vị cha, mẹ để hưởng di sản của ông bà hoặc các cụ.

Ba là, người thừa kế thế vị phải còn sống vào thời điểm người để lại di sản chết hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết.

Bốn là, khi còn sống, người cha hoặc mẹ của người được thế vị phải có quyền được hưởng di sản của người chết (nếu bị tước hoặc bị truất quyền hưởng di sản thừa kế thì con hoặc cháu của những người này không thể thế vị).

Năm là, bản thân người thế vị không bị tước quyền thừa kế theo khoản 1 Điều 644 Bộ luật Dân sự năm 2015.

Có hai trường hợp thừa kế thế vị. Một là cháu thế vị cha hoặc mẹ để hưởng di sản của ông, bà. Hai là chắt thế vị cha hoặc mẹ để hưởng phần di sản của cụ. Nếu cha, mẹ chết trước hoặc chết cùng thời điểm với ông, bà hoặc cụ thì phần di chúc định đoạt tài sản cho cha mẹ (nếu có di chúc) sẽ vô hiệu. Phần di sản đó được chia theo pháp luật và lúc này cháu (chắt) mới được hưởng thừa kế thế vị.

2. Một số vấn đề cần làm rõ.

2.1. Xác định phạm vi thừa kế thế vị.

Trong vấn đề này, Bộ luật Dân sự 2015 quy định phạm vi thừa kế thế vị là “cháu” và “chắt”. Thực tế xảy ra một số vấn đề sau:

- Quyền thừa kế của đứa trẻ được sinh ra theo phương pháp hỗ trợ sinh sản. Thực tiễn xảy ra vụ việc như sau: A. và B. là cặp vợ chồng hiếm muộn nên sử dụng phương pháp thụ tinh ống nghiệm. Sau hai lần thất bại thì A. và B. quyết định thực hiện lần thứ ba. Khi đang thực hiện thì A. (người chồng) chết, sau đó thụ tinh thành công, C. ra đời và còn sống. Vậy, khi thừa kế thế vị đặt ra, A. có được coi là có con để hưởng thế vị phần của A. không? Hay nói cách khác, có được coi C. là con của A. để thừa kế thế vị không? Bởi lẽ, C. hình thành thai sau khi A. đã chết, mặc dù cùng huyết thống với A. nhưng theo các căn cứ xác định cha, mẹ, con thì không phù hợp để xác định quan hệ cha - con. Vậy, trường hợp này xử lý thế nào còn đang bỏ ngỏ và có nhiều quan điểm khác nhau. Tác giả cho rằng cần hoàn thiện quy định về vấn đề này không chỉ trong chế định thừa kế của Bộ luật Dân sự (cho phép công nhận cha con và đương nhiên có quyền thừa kế) mà còn các văn bản pháp luật khác như Luật Hôn nhân gia đình (căn cứ xác định cha, mẹ, con)…

- Phạm vi thừa kế thế vị chỉ dừng lại ở thế hệ “chắt”, tức là trong phạm vi 04 thế hệ (từ cụ đến chắt). Vậy lý do gì để đặt ra điều đó? Tại sao các thế hệ tiếp theo lại không được thừa kế thế vị mặc dù vẫn có quan hệ huyết thống. Bản chất của thừa kế thế vị là giữ gìn và kế thừa những “phần đương nhiên” mà thế hệ trước được hưởng, trao lại cho thế hệ sau. Do đó, cần mở rộng phạm vi đến các thế hệ tiếp theo mà không dừng lại ở chắt. Chất lượng cuộc sống ngày càng đi lên, trường hợp này sẽ trở lên phổ biến trong tương lai, nếu con, cháu, chắt đều chết trước hoặc cùng thời điểm với người để lại di sản mà con của chắt không được thừa kế thế vị thì sẽ không bảo đảm sự hợp lý, bình đẳng. Do đó, cần sửa đổi, bổ sung quy định này theo hướng không giới hạn thế hệ được hưởng thừa kế thế vị.

- Theo quy định hiện hành, cháu, chắt chỉ được hưởng thừa kế thế vị nếu cha, mẹ của cháu, chắt được hưởng di sản nếu còn sống. Liên quan đến vấn đề này, hiện có hai luồng ý kiến khác nhau. Ý kiến thứ nhất cho rằng, quy định như vậy là chưa hợp lý. Bởi lẽ, bản thân những người là cháu, chắt không bị Tòa án tước quyền hưởng di sản và không bị người để lại di sản truất quyền hưởng di sản và họ có năng lực pháp luật để thừa hưởng di sản hoặc trường hợp cháu và chắt chưa thành niên hoặc đã thành niên mà không có khả năng lao động (1). Ý kiến thứ hai cho rằng, quy định này là hợp lý và những người theo ý kiến này đồng tình với giải đáp tại tiểu mục 4, Mục II, Công văn số 64/TANDTC-PC ngày 03/4/2019 của TAND Tối cao, đó là: Thừa kế thế vị được hiểu là hưởng thay và đối tượng hưởng thay đã được quy định rõ là “phần di sản của cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống”. Trường hợp một người đã không được quyền hưởng di sản theo quy định tại khoản 1, Điều 621 của Bộ luật Dân sự năm 2015, như bị kết án về hành vi ngược đãi nghiêm trọng người cha thì họ sẽ không được hưởng di sản của người cha.

Do vậy, nếu họ còn sống khi cha chết thì họ cũng không được hưởng di sản thừa kế nên không có “phần được hưởng nếu còn sống” để cho người khác hưởng thế vị. Như vậy, cha mẹ của cháu hoặc chắt phải là người được quyền hưởng di sản thì cháu hoặc chắt mới được hưởng thế vị thay cha, mẹ khi cha, mẹ chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người để lại di sản. Bản thân tác giả nhận thấy ý kiến thứ hai là phù hợp. Hiện nay, pháp luật quy định việc thừa kế theo pháp luật là theo từng hàng thừa kế riêng biệt theo thứ tự ưu tiên.

Chỉ khi hàng thừa kế ưu tiên trước không có người nào, thì hàng thừa kế tiếp theo mới được xét đến. Do đó, đối với phần di sản của ông, bà thì chỉ con của ông, bà (hay chính là cha, mẹ của cháu) mới được hưởng. Nếu cha, mẹ của cháu không được hưởng, thì bản chất thế vị sẽ không đặt ra, sẽ không có phần di sản nào phải giữ gìn và trao lại cho thế hệ sau (chính là cháu). Do đó, nếu cha, mẹ không được hưởng thừa kế thì không đặt ra vấn đề thừa kế thế vị là phù hợp.

2.2. Thừa kế thế vị trong một số trường hợp.

Thứ nhất, trường hợp thừa kế giữa con nuôi với cha, mẹ nuôi. Theo Điều 653, Bộ luật Dân sự 2015, con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi được thừa kế di sản của nhau và được thừa kế thế vị theo Điều 652, Bộ luật Dân sự. Như vậy, quy định này được hiểu rằng, con của người con nuôi sẽ được thừa kế thế vị đối với di sản của cha, mẹ nuôi. Ở đây có hai trường hợp đó là con của người con nuôi là con đẻ hoặc con nuôi. Trường hợp là con đẻ thì người con đẻ này và cha, mẹ (con nuôi của ông, bà) có quan hệ huyết thống với nhau, do đó, việc thừa kế thế vị là phù hợp trên cơ sở huyết thống.

Tuy nhiên, nếu người đó là con nuôi thì không hợp lý. Bởi vì, giữa con nuôi của người con nuôi và cha, mẹ nuôi hoàn toàn không tồn tại quan hệ huyết thống hay chăm sóc, nuôi dưỡng (quan hệ chăm sóc nuôi dưỡng chỉ phát sinh giữa con nuôi và cha, mẹ nuôi). Do đó, nếu vẫn xảy ra quan hệ thừa kế thế vị thì sẽ bất hợp lý. Do đó, cần bổ sung quy định “Trường hợp người con nuôi chết trước hoặc cùng thời điểm với cha nuôi, mẹ nuôi thì chỉ con đẻ của người con nuôi đó được thừa kế thế vị để nhận di sản của người để lại di sản”.

Thứ hai, trường hợp thừa kế giữa con riêng, cha dượng, mẹ kế. Theo Điều 654, Bộ luật Dân sự 2015, con riêng và bố dượng, mẹ kế nếu có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con thì được thừa kế di sản của nhau và được thừa kế thế vị theo Điều 652, Bộ luật Dân sự. Như vậy, có thể hiểu trường hợp con riêng và cha dượng, mẹ kế sẽ không đương nhiên được thừa kế (bao gồm thừa kế thế vị) mà phải đáp ứng điều kiện “có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con”.

Vậy, thế nào là “có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng” và “quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng đó như thế nào thì được coi là như cha con, mẹ con”. Hiện nay chưa có quy định, chưa có văn bản hướng dẫn về vấn đề này, gây nhiều khó khăn. Liệu mức độ chăm sóc, đặc điểm nuôi dưỡng nào để thuộc trường hợp này? Việc ở riêng nhưng chỉ chu cấp tiền có được xem là quan hệ chăm sóc không? Cấp dưỡng bao nhiêu, chăm sóc như thế nào thì là như cha con, mẹ con… Do đó, cần sớm có quy định và hướng dẫn liên quan đến vấn đề này, quy định quyền và nghĩa vụ giữa con riêng với cha dượng, mẹ kế làm cơ sở xem xét.

(1) ThS. Phan Thành Nhân, Một số vướng mắc về người thừa kế theo pháp luật về đề xuất, kiến nghị, Tạp chí Tòa án Nhân dân điện tử, ngày 13/9/2019, https://tapchitoaan.vn/mot-so-vuong-mac-ve-nguoi-thua-ke-theo-phap-luat-va-de-xuat-kien-nghi. 

VĂN LINH

TAQS Khu vực Hải quân

Cần hoàn thiện khung pháp lý cho loại hình bất động sản nghỉ dưỡng