Để vai trò đại diện nhân dân trong xét xử thực chất, hiệu quả hơn

28/09/2021 02:09 | 2 năm trước

(LSVN) - Cải cách tư pháp đã và đang tiếp tục đòi hỏi cần có sự đổi mới trong hoạt động xét xử nhằm tạo ra các quy trình, thủ tục tố tụng thật sự khoa học, hợp lý để giải quyết kịp thời, hiệu quả các mâu thuẫn, tranh chấp trong xã hội và ngăn ngừa, xử lý nghiêm minh các loại tội phạm.

Ảnh minh họa.

Hội thẩm nhân dân ở Việt Nam là một chức danh tư pháp, đại diện cho nhân dân trong hoạt động tố tụng. Theo đó, hội thẩm nhân dân do hội đồng nhân dân địa phương bầu ra theo nhiệm kỳ để tham gia xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự, dân sự, hành chính theo quy định của pháp luật. Hội thẩm cùng với thẩm phán trực tiếp xét xử, đưa ra các phán quyết của tòa án theo nguyên tắc bình đẳng, quyết định theo đa số. Hội thẩm nhân dân còn là người thường xuyên gắn bó với nhân dân, tham gia giám sát hoạt động tư pháp, góp phần tuyên truyền pháp luật và là nhịp cầu nối giữa tòa án và người dân.

Trải qua hơn 70 năm áp dụng thực hiện, bên cạnh những ưu điểm, kết quả đạt được, chế định hội thẩm nhân dân cũng bộc lộ không ít hạn chế, khiếm khuyết. Có thể nêu ra một số thực trạng và nguyên nhân sau:

Thứ nhất, mặc dù theo quy định hiện hành thì hội thẩm tham gia tiến hành tố tụng, thay vì chỉ tham gia xét xử. Nhưng vai trò của hội thẩm ở các hoạt động tố tụng khác ngoài xét xử vẫn chưa được làm rõ. Thậm chí, ngay trong quá trình xét xử, có khi nguyên tắc “độc lập xét xử” của tòa án còn bị vi phạm, bị can thiệp thô bạo từ bên ngoài khiến thẩm phán và hội thẩm xét xử không khách quan, ra bản án không phù hợp với quy định của pháp luật, gây tác động xấu đến xã hội.

Thực tiễn cho thấy, tình trạng “trao đổi đường lối xét xử”, “báo cáo án”, “thỉnh thị án”; hội thẩm không thực sự chú tâm đến quá trình nghiên cứu hồ sơ, xét xử, “trông chờ” theo ý kiến của thẩm phán trong quá trình xét xử vẫn diễn ra. Tuy pháp luật đã có những quy định nhằm hạn chế sự “dẫn dắt”, “áp đặt” của thẩm phán, nhưng thực tế hầu hết trong các vụ án hình sự, hội thẩm gần như “phó thác" trách nhiệm cho thẩm phán. Khi tham gia xét xử, vai trò của không ít hội thẩm chưa được thể hiện rõ nét và đúng nghĩa là người đại diện của quần chúng nhân dân. 

Thứ hai, theo quy định, khi được phân công xét xử, hội thẩm ngang quyền với thẩm phán trong quá trình tố tụng, nhưng pháp luật không quy định cụ thể hội thẩm phải nghiên cứu hồ sơ vụ án thời gian là bao nhiêu, trách nhiệm cụ thể của hội thẩm trong việc tuân thủ quy định này như thế nào,… Do đó, khả năng xem xét, đánh giá một cách đầy đủ, toàn diện về vụ án, nhất là trong việc lượng hình, quyết định hình phạt, trách nhiệm dân sự, bồi thường theo pháp luật trong vụ án hình sự rất khó bảo đảm. Chưa kể, đối với các vụ án phức tạp, phải chịu áp lực lớn từ bên ngoài còn khiến hội thẩm e ngại, sợ trách nhiệm, thiếu tự tin khi đưa ra quan điểm riêng của mình.

Thứ ba, trong khi kiến thức pháp luật, kỹ năng chuyên môn nghiệp vụ, điều kiện làm việc giữa hội thẩm và thẩm phán vẫn còn khác nhau quá lớn thì việc thực hiện nguyên tắc “ngang quyền” và quyết định theo đa số của hội thẩm khi tham gia xét xử nhiều khi chỉ mang tính hình thức.

Thứ tư, hội thẩm tham gia vào hoạt động xét xử của tòa án nói chung phần lớn trong số họ chưa thể hiện được trách nhiệm nặng nề mà người dân trao cho. Lý do bởi, hội thẩm làm nhiệm vụ xét xử chỉ là kiêm nhiệm, chế độ chính sách dành cho họ chưa thỏa đáng (90.000 đồng/1 ngày làm nhiệm vụ), cơ chế bảo vệ đối với họ và người thân của họ chưa rõ ràng,… trong khi họ phải đối mặt với trách nhiệm công vụ, chịu sự tác động, áp lực từ bên ngoài khi làm nhiệm vụ hội thẩm…

Thứ năm, quy định về tiêu chuẩn, điều kiện trở thành hội thẩm nhân dân; công tác quản lý, bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn; trách nhiệm pháp lý đối với hội thẩm hiện vẫn còn chung chung, chưa đầy đủ, rõ ràng. Thậm chí theo quy định thì hội thẩm có thể bị xử phạt tù đến 15 năm nếu ra bản án trái pháp luật, nhưng ngay với biện pháp chế tài được xem là nghiêm khắc này cũng rất khó áp dụng. Bởi theo nguyên tắc “tòa án xét xử tập thể và quyết định theo đa số”, với bản án trái pháp luật, giả xử có hội thẩm thuộc đối tượng bị xem xét xử lý cũng rất khó vì bản án đó còn có sự tham gia, giám sát của các tổ chức, cá nhân khác và hội thẩm cũng viện ra các lý do khác nhau để thoái thác, trốn tránh trách nhiệm.

Ngoài ra, đến nay pháp luật chưa có quy định bắt buộc hội thẩm phải có thời gian nghiên cứu vụ án là bao nhiêu, việc nắm bắt nội dung vụ án và các quy định liên quan như thế nào mới được tham gia xét xử. Chưa kể, trong trường hợp hội thẩm từ chối vì lý do nào đó hoặc bị thay đổi hội thẩm (dù là dự khuyết) khi gần đến thời điểm mở phiên tòa hoặc tại phiên tòa cũng sẽ làm ảnh hưởng đến chất lượng xét xử. Từ đó dẫn đến thực tế là tại nhiều phiên tòa, vai trò của hội thẩm khá mờ nhạt; có hội thẩm tham gia xét xử hàng chục vụ án, nhưng cũng có hội thẩm chỉ tham gia một vài vụ án mỗi năm; hầu hết hội thẩm đều đồng ý với quan điểm của thẩm phán trong hội đồng xét xử.

Có thể thấy, trong trường hợp vụ án không quá phức tạp, hội thẩm tham gia từ đầu và với tinh thần trách nhiệm cao, khi đó vụ án sẽ diễn ra thuận lợi với chất lượng xét xử bảo đảm. Tuy nhiên, trong các vụ án phức tạp, hội thẩm không thực sự dành tâm huyết, thời gian chuẩn bị cho việc nghiên cứu về vụ án thì việc xét xử sẽ rất khó khăn, thậm chí quá trình xét xử vụ án sẽ bị ảnh hưởng, khó đạt chất lượng. Bởi, không giống như chế độ bồi thẩm đoàn của nhiều nước là các bồi thẩm viên chỉ xem xét, biểu quyết vấn đề cơ bản của vụ án, còn việc áp dụng điều luật do thẩm phán chuyên nghiệp thực hiện, trong khi đó ở nước ta hội thẩm cùng thẩm phán trực tiếp xét xử từ đầu đến khi kết thúc vụ án và quyết định các vấn đề liên quan.

Do những hạn chế từ hội thẩm nhân dân nên khi tham gia xét xử, vai trò của hội thẩm chưa được thể hiện rõ và đúng nghĩa đại diện của các giới, các ngành, các tổ chức xã hội, nghề nghiệp để phản ánh một cách khách quan suy nghĩ, tâm tư của quần chúng nhân dân, chứ chưa nói đến góc độ của một luật gia thuần túy. Dù biết rằng hội thẩm chỉ tham gia hội đồng xét xử tại tòa án cấp sơ thẩm, nhưng một bản án, quyết định được tuyên nếu không rõ ràng, thiếu khách quan thì chắc chắn sẽ ảnh hưởng lớn đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, họ vừa phải mất thời gian đeo đuổi vụ án theo vòng quay tố tụng, đó là chưa kể khi bản án đó nếu bị hủy giao lại cấp sơ thẩm xét xử lại từ đầu, vừa phải bỏ ra những khoản chi phí cũng không nhỏ, nhưng quan trọng hơn đó là niềm tin của người dân vào tòa án và công lý chắc chắn sẽ bị giảm sút.

Lịch sử hoạt động tố tụng ở Việt Nam đến nay gần như chưa có hội thẩm nào phải chịu trách nhiệm pháp lý liên quan đến hoạt động xét xử. Thậm chí, có những trường hợp sai phạm do công tác xét xử gây ra rất nghiêm trọng, nhưng chỉ có thẩm phán phải chịu trách nhiệm, còn hội thẩm vô can. Mặc dù pháp luật đã có những bổ sung, điều chỉnh, nhưng nhiều quy định vẫn chung chung, rất khó xác định về sai phạm (nếu có) để quy trách nhiệm đối với hội thẩm khi tham gia xét xử. Có lẽ vậy mà Báo cáo sơ kết 5 năm thực hiện Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 của Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp Trung ương đã nhận định “Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về tổ chức, hoạt động của các cơ quan tư pháp chưa được xây dựng hoàn chỉnh, chưa tạo cơ sở pháp lý đầy đủ; chất lượng cán bộ tư pháp chưa đồng đều, còn một bộ phận không nhỏ cán bộ yếu kém cả về chuyên môn nghiệp vụ và phẩm chất chính trị, đạo đức; chưa nêu cao tinh thần trách nhiệm trong công việc, ý thức tôn trọng, chấp hành pháp luật chưa cao; thiếu khách quan, vô tư, làm suy giảm niềm tin của nhân dân đối với các cơ quan tư pháp”.

Từ thực tiễn mô hình tổ chức xét xử và kết quả hoạt động tư pháp ở nước ta vừa qua và trong bối cảnh hội nhập như hiện nay đang đặt ra những yêu cầu mới, đòi hỏi cần tiếp tục đổi mới và hoàn thiện về lĩnh vực tư pháp nói chung và công tác của tòa án nói riêng. Trong đó, cần nghiêm túc đánh giá một cách toàn diện, đầy đủ về lý luận và thực tiễn đối với chế định hội thẩm nhân dân. Đồng thời tập trung nghiên cứu, sửa đổi các quy định của pháp luật để vai trò đại diện nhân dân trong hoạt động tố tụng thực sự phát huy hiệu quả, đáp ứng được các yêu cầu đặt ra trong công tác xét xử, bảo đảm dân chủ, công bằng và công lý.

BẢO HƯƠNG

Tạo lập môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi, thúc đẩy sự phát triển của doanh nghiệp

Hình thức và thời gian đào tạo trình độ thạc sĩ theo quy định mới

(LSVN) - Tôi đang có dự định học thạc sĩ trong thời gian tới. Được biết, ngày 30/8/2021, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành Thông tư 23/2021/TT-BGDĐT về Quy chế tuyển sinh và đào tạo trình độ thạc sĩ. Vậy theo quy định mới này, hình thức và thời gian đào tạo trình độ thạc sĩ như thế nào và có gì khác so với quy định trước đó? Bạn đọc T.K. hỏi.

Ảnh minh họa.

Chương trình đào tạo thạc sĩ do cơ sở đào tạo xây dựng, thẩm định và ban hành theo định hướng nghiên cứu hoặc định hướng ứng dụng, đáp ứng yêu cầu của Khung trình độ quốc gia Việt Nam và quy định về chuẩn chương trình đào tạo của Bộ Giáo dục và Đào tạo.

Chương trình đào tạo được thực hiện để cấp bằng thạc sĩ theo quy định của Quy chế này; không cấp thêm một văn bằng giáo dục đại học khác. Chương trình đào tạo áp dụng chung đối với các hình thức, phương thức tổ chức đào tạo và đối tượng người học khác nhau.

Điều 3 của Thông tư quy định rõ về hình thức và thời gian đào tạo. Theo đó, hình thức đào tạo chính quy áp dụng cho chương trình định hướng nghiên cứu và chương trình định hướng ứng dụng. Hình thức đào tạo vừa làm vừa học áp dụng cho chương trình định hướng ứng dụng.

Thời gian tổ chức hoạt động giảng dạy đối với mỗi hình thức đào tạo thực hiện theo Quy chế đào tạo trình độ đại học của Bộ Giáo dục và Đào tạo.

Đối với mỗi hình thức đào tạo, cơ sở đào tạo cung cấp kế hoạch học tập chuẩn toàn khóa cho từng chương trình đào tạo để định hướng cho học viên. Thời gian đào tạo được quy định như sau:

- Thời gian theo kế hoạch học tập chuẩn toàn khóa phải phù hợp với thời gian quy định trong Khung cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân, đồng thời bảo đảm đa số học viên hoàn thành chương trình đào tạo;

- Thời gian theo kế hoạch học tập chuẩn toàn khóa đối với hình thức đào tạo vừa làm vừa học dài hơn ít nhất 20% so với hình thức đào tạo chính quy của cùng chương trình đào tạo;

- Thời gian tối đa để học viên hoàn thành khóa học được quy định trong quy chế của cơ sở đào tạo nhưng không vượt quá 02 lần thời gian theo kế hoạch học tập chuẩn toàn khóa đối với mỗi hình thức đào tạo.

Điều 5 của Thông tư nêu yêu cầu với người dự tuyển gồm:

- Đã tốt nghiệp hoặc đã đủ điều kiện công nhận tốt nghiệp đại học (hoặc trình độ tương đương trở lên) ngành phù hợp; đối với chương trình định hướng nghiên cứu yêu cầu hạng tốt nghiệp từ khá trở lên hoặc có công bố khoa học liên quan đến lĩnh vực sẽ học tập, nghiên cứu;

- Có năng lực ngoại ngữ từ Bậc 3 trở lên theo Khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc dùng cho Việt Nam;

- Đáp ứng các yêu cầu khác của chuẩn chương trình đào tạo do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành và theo quy định của chương trình đào tạo.

Thông tư số 23/2021/TT-BGDĐT có hiệu lực từ ngày 15/10/2021 và thay thế Thông tư số 15/2014/TT-BGDĐT.

HỒNG HẠNH

TP. HCM kiến nghị Thủ tướng cho áp dụng quy định riêng để mở cửa kinh tế

Đề xuất xác định lại 'số lợi bất hợp pháp' có được do vi phạm trong lĩnh vực đất đai

(LSVN) - Hiện Bộ Tài nguyên và Môi trường (TN&MT) đã hoàn thành dự thảo sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 91/2019/NĐ-CP, sửa đổi, bổ sung một số điều của các nghị định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai; tài nguyên nước và khoáng sản; khí tượng thủy văn; đo đạc và bản đồ. Trong đó đề xuất sửa đổi việc xác định số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai quy định tại Điều 7, Nghị định 91/2019/NĐ-CP là một trong những nội dung quan trọng. Đây là một trong những nội dung được chú ý được Bộ TN&MT đưa ra trong Dự thảo sửa đổi, bổ sung lần này. 

Thực hiện Quyết định về Kế hoạch triển khai thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính số 126/QĐ-TTg của Thủ tướng, Bộ TN&MT đã bước đầu hoàn thiện và công bố Dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của các nghị định về xử phạt vi phạm hành chính trong đó có lĩnh vực đất đai để xin ý kiến rộng rãi người dân.

Lý do sửa đổi, bổ sung lần này, theo Bộ Tài Nguyên và Môi Trường là do ngày 13/11/2020, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIV đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2022. Luật này có nhiều nội dung cơ bản, quan trọng đã được sửa đổi, bổ sung, trong đó một số nội dung sửa đổi liên quan trực tiếp đến việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai. Sửa đổi, bổ sung về thủ tục xử phạt (Điều 58 về lập biên bản vi phạm hành chính).

Mặt khác, trong quá trình thi hành Nghị định số 91/2019/NĐ-CP cho thấy một số văn bản quy phạm pháp luật mới ban hành có quy định về nội dung quản lý nhưng chưa có quy định về xử phạt để thực hiện hoặc cần được làm rõ thêm để nhất quán trong cách thực hiện; một số hành vi tại các Nghị định xử phạt qua rà soát còn thiếu so với quy định pháp luật cần bổ sung để làm căn cứ xác định hành vi vi phạm, biện pháp khắc phục hậu quả; quy định về một số hành vi chưa phù hợp với thực tiễn, cần có sự điều chỉnh. Do vậy, để bảo đảm phù hợp với Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính 2020 và đáp ứng yêu cầu quản lý, thực tiễn trong quá trình xử phạt vi phạm hành chính thì việc trình Chính phủ ban hành Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của các nghị định về xử phạt vi phạm hành chính trong một số lĩnh vực trong đó có đất đai là cần thiết.

Đáng chú ý, trong Dự thảo Nghị định đang lấy ý kiến, Bộ TN&MT đề xuất sửa đổi, bổ sung 8/44 Điều của Nghị định số 91/2019/NĐ-CP ngày 19/11/2019 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai. Trong đó, có sửa đổi, bổ sung các khoản của Điều 7 về việc xác định “Giá đất của loại đất trước và sau khi vi phạm được xác định bằng giá đất của bảng giá đất do UBND cấp tỉnh quy định”.

Đánh giá về các đề xuất sửa đổi mà Bộ TN&MT đưa ra, Luật sư Lê Tự Nhiên, Đoàn Luật sư thành phố Hồ Chí Minh cho rằng để đồng nhất thuật ngữ với các văn bản về xử phạt hành chính khác và phù hợp với một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2022, thay vì dùng cụm từ “số lợi có được do vi phạm” của Nghị định số 91/2019/NĐ-CP dự thảo lần này đã thay bằng “số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện hành vi vi phạm.

Luật sư Nhiên cũng cho biết thêm: “Việc sửa đổi này cũng đảm bảo đối với khoản tiền thu được từ vi phạm trong hoạt động sử dụng đất sang mục đích khác hợp lý hơn, khi mà khoản lợi này không chỉ xuất phát từ những hành vi vi phạm, mà còn mang tính chất là bất hợp pháp. Nếu như số lợi thu được từ người thực hiện hành vi vi phạm không phải là bất hợp pháp. Ví dụ: tiền bán được từ hoa màu trồng được trên đất lấn chiếm (dù xuất phát từ hành vi canh tác đất lấn chiếm) mà vẫn yêu cầu thu hồi thì khó định lượng và không phù hợp với các quy định pháp luật hiện hành hơn nữa là không nhằm đúng mục đích răn đe hành vi vi phạm đối với hành vi sử dụng đất sang mục đích khác. Do đó căn cứ xác định để thu số lợi bất hợp pháp đối với hành vi sử dụng đất sai mục đích được ấn định là Giá đất của bảng giá đất do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định là hợp lý”.

Luật sư Lê Tự Nhiên – Đoàn Luật sư TP. Hồ Chí Minh.

Trao đổi với Luật sư Nguyễn Tiến Hiếu, Công ty luật HOK (Đoàn Luật sư TP. Hà Nội) cho biết thêm, đối với một số cụm từ được thống nhất sử dụng để phù hợp với các văn bản pháp luật khác và phản ánh đúng bản chất của sự vi phạm là bất hợp pháp, dự thảo đã có sự điều chỉnh từ: “số lợi có được do vi phạm”  thành “số lợi bất hợp pháp có được do vi phạm” và căn cứ xác định để thu số lợi bất hợp pháp đối với hành vi sử dụng đất sai mục đích được ấn định là “Giá đất của bảng giá đất do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định”  điều này phù hợp với phù hợp với quy định tại điểm d khoản 2 Điều 114 Luật Đất đai 2013.

Tại dự thảo lần này, đơn vị soạn thảo có đề xuất bổ sung khoản 10 vào Điều 7 Nghị định số 91/2019/NĐ-CP phương án về thời điểm chuyển tiếp để áp dụng văn bản pháp luật đối với việc nộp số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện hành vi vi phạm. Theo đó, Bộ Tài nguyên và Môi trường đưa ra hai (02) phương án tại dự thảo, cụ thể:

Dự thảo bổ sung: khoản 10, Điều 7 Nghị định số 91/2019/NĐ-CP.

Trao đổi thêm về nội dung bổ sung khoản 10 Điều 7 của dự thảo, Luật sư Nguyễn Tiến Hiếu nhận định: “Các phương án của dự thảo đã bảo đảm phù hợp về mặt thẩm quyền, và các điều kiện áp dụng pháp luật đối với mỗi hành vi vi phạm theo quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính, các quy định pháp luật có liên quan, tương thích với hệ thống các quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong các lĩnh vực này và chắc chắn sẽ góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường, đồng thời nâng cao ý thức trách nhiệm thi hành pháp luật của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan”.

Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bộ TM&MT đã đăng toàn văn nội dung dự thảo để lấy ý kiến góp ý rộng rãi của các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp và đông đảo người dân trong và ngoài nước.

NGUYỄN ĐỨC HOÀN

Doanh nghiệp nhỏ và vừa được giảm mức đóng bảo hiểm thất nghiệp bằng 0% trong bao lâu?

Điều kiện tiếp cận thị trường của nhà đầu tư nước ngoài về thương mại điện tử theo quy định mới

(LSVN) - Hoạt động cung cấp dịch vụ thương mại điện tử là ngành, nghề tiếp cận thị trường có điều kiện đối với nhà đầu tư nước ngoài. Nghị định số 85/2021/NĐ-CP của Chính phủ đã bổ sung các quy định liên quan đến hoạt động thương mại điện tử có yếu tố nước ngoài. Trong đó có điều kiện tiếp cận thị trường của nhà đầu tư nước ngoài.

Ảnh minh họa.

Chính phủ vừa ban hành Nghị định số 85/2021/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 52/2013/NĐ-CP ngày 16/5/2013 của Chính phủ về thương mại điện tử.

Nghị định 85/2021/NĐ-CP quy định thương nhân, tổ chức nước ngoài có website cung cấp dịch vụ thương mại điện tử tại Việt Nam là thương nhân, tổ chức có một trong các hình thức hoạt động sau: Website thương mại điện tử dưới tên miền Việt Nam; website thương mại điện tử có ngôn ngữ hiển thị là tiếng Việt; website thương mại điện tử có trên 100.000 lượt giao dịch từ Việt Nam trong một năm.

Thương nhân, tổ chức nước ngoài có website cung cấp dịch vụ thương mại điện tử tại Việt Nam theo quy định trên thực hiện đăng ký hoạt động thương mại điện tử theo quy định tại Nghị định này và thành lập văn phòng đại diện tại Việt Nam theo quy định của pháp luật hoặc chỉ định đại diện theo ủy quyền của mình tại Việt Nam.

Nội dung hoạt động của văn phòng đại diện hoặc nội dung ủy quyền phải đảm bảo các trách nhiệm sau: Phối hợp với cơ quan quản lý nhà nước trong việc ngăn chặn các giao dịch hàng hóa, dịch vụ vi phạm pháp luật Việt Nam; thực hiện các nghĩa vụ về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, chất lượng sản phẩm, hàng hóa theo quy định của pháp luật Việt Nam; thực hiện nghĩa vụ báo cáo theo quy định.

Hoạt động cung cấp dịch vụ thương mại điện tử là ngành, nghề tiếp cận thị trường có điều kiện đối với nhà đầu tư nước ngoài. Các điều kiện tiếp cận thị trường gồm:

- Nhà đầu tư nước ngoài đầu tư kinh doanh hoạt động cung cấp dịch vụ thương mại điện tử tại Việt Nam theo quy định tại Khoản 1, Khoản 2 Điều 21 Luật Đầu tư;

- Nhà đầu tư nước ngoài chi phối từ 1 doanh nghiệp trở lên thuộc nhóm 5 doanh nghiệp dẫn đầu thị trường dịch vụ thương mại điện tử tại Việt Nam theo danh sách do Bộ Công Thương công bố phải có ý kiến thẩm định về an ninh quốc gia của Bộ Công an.

Nhà đầu tư có hoạt động đầu tư vào doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo theo quy định của pháp luật về hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa không phải thực hiện quy định trên.

Nhà đầu tư nước ngoài chi phối doanh nghiệp hoạt động cung cấp dịch vụ thương mại điện tử quy định tại điểm 2 là khi thuộc một trong các trường hợp sau:

- Nhà đầu tư nước ngoài nắm giữ quyền sở hữu trên 50% vốn điều lệ hoặc trên 50% cổ phần có quyền biểu quyết của doanh nghiệp;

- Nhà đầu tư trực tiếp hoặc gián tiếp quyết định bổ nhiệm, miễn nhiệm hoặc bãi nhiệm đa số hoặc tất cả thành viên hội đồng quản trị, chủ tịch hội đồng thành viên, giám đốc hoặc tổng giám đốc của doanh nghiệp;

- Nhà đầu tư có quyền quyết định các vấn đề quan trọng trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bao gồm việc lựa chọn nền tảng công nghệ, hình thức tổ chức kinh doanh; lựa chọn ngành, nghề, địa bàn, hình thức kinh doanh; lựa chọn điều chỉnh quy mô và ngành, nghề kinh doanh; lựa chọn hình thức, phương thức huy động, phân bổ và sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp đó.

Nhóm 5 doanh nghiệp dẫn đầu thị trường tại Điểm 2 được xác định dựa trên các tiêu chí về số lượt truy cập, số lượng người bán, số lượng giao dịch, tổng giá trị giao dịch.

Nghị định quy định thương nhân, tổ chức nước ngoài thực hiện hoạt động bán hàng hóa theo Quy chế hoạt động của sàn giao dịch thương mại điện tử Việt Nam.

Thương nhân, tổ chức cung cấp dịch vụ sàn giao dịch thương mại điện tử Việt Nam có trách nhiệm xác thực danh tính của thương nhân, tổ chức nước ngoài bán hàng hóa trên sàn giao dịch thương mại điện tử đó, đồng thời lựa chọn thực hiện một trong các trách nhiệm: yêu cầu thương nhân thực hiện quyền xuất khẩu, quyền nhập khẩu của thương nhân nước ngoài không có hiện diện tại Việt Nam theo quy định của pháp luật; tổ chức việc thực hiện hoạt động nhập khẩu theo ủy thác của người mua đối với hàng hóa do thương nhân, tổ chức nước ngoài giao dịch trên sàn giao dịch thương mại điện tử; yêu cầu thương nhân, tổ chức nước ngoài chỉ định đại lý thương mại của mình tại Việt Nam.

Hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu được giao dịch qua thương mại điện tử thực hiện thủ tục hải quan theo quy định của pháp luật hải quan.

MINH HIỀN

Doanh nghiệp nhỏ và vừa được giảm mức đóng bảo hiểm thất nghiệp bằng 0% trong bao lâu?