Dự thảo thay thế Nghị định 82 về khu công nghiệp có thực sự đã bước sang trang mới?

08/04/2022 22:07 | 2 năm trước

(LSVN) - Ngày 22/5/2018, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 82/2018/NĐ-CP, là cơ sở pháp lý hiện hành áp dụng cho các đối tượng liên quan đến hoạt động của khu công nghiệp, một bước tiến mới trong tiến trình hoàn thiện các quy phạm pháp luật điều các chỉnh quan hệ pháp luật đặc biệt quan trọng này trong thời kỳ hội nhập. Tuy nhiên, sau hơn ba năm áp dụng, Nghị định số 82/2018/NĐ-CP đã bộc lộ nhiều bất cập, vướng mắc, cụ thể hơn là thiếu tính đồng bộ và không thống nhất, xung đột đa chiều với các văn bản pháp luật chuyên ngành khác.

Ảnh minh họa.

Năm 2020, mặc dù dịch Covid-19 đã ảnh hưởng tiêu cực đến mọi lĩnh vực trong đời sống kinh tế - xã hội nhưng với mức tăng trưởng GDP ước đạt 2,9%, Việt Nam là một trong số ít quốc gia trên thế giới được xác định có mức tăng trưởng kinh tế dương. Dự báo, nền kinh tế Việt Nam sẽ có mức tăng trưởng 6,6% năm 2021 nếu chúng ta tiếp tục kiểm soát hiệu quả sự lây lan của virus Covid-19, đồng thời các ngành sản xuất theo hướng xuất khẩu hoạt động tốt và nhu cầu nội địa phục hồi mạnh mẽ.

Đạt được những kết quả đáng ghi nhận này có thể coi là một kỳ tích đánh dấu nỗ lực của nhiều cấp, ngành, lĩnh vực hoạt động của toàn bộ nền kinh tế trong thời điểm dịch bệnh hoành hành, trong đó cần phải kể đến nguồn thu đáng kể phát sinh từ hoạt động của các Khu công nghiệp (KCN), Khu chế xuất (KCX) và Khu kinh tế (KKT) trên địa bàn cả nước. Nhận định này được chứng minh một cách trực quan là trung bình hàng năm, vốn đầu tư nước ngoài trong KCN, KKT chiếm khoảng 35 - 40% tổng vốn đầu tư nước ngoài đăng ký tăng thêm của cả nước; nếu tính riêng trong lĩnh vực công nghệ điện tử, chế tạo thì vốn đầu tư nước ngoài trong KCN chiếm khoảng 70 - 80% tổng vốn đăng ký cả nước.

Điển hình cụ thể hơn, trong những tháng cuối năm 2020, tổng vốn đầu tư cấp mới và điều chỉnh tại các KCN thuộc tỉnh Bắc Ninh đạt 902 triệu USD, giá trị sản xuất công nghiệp ước đạt 828.000 tỉ đồng; doanh thu đạt 925.000 tỉ đồng; giá trị xuất khẩu đạt 24,4 tỉ USD; nộp ngân sách nhà nước ước đạt 7.335 tỉ đồng. Từ những con số này có thể thấy rằng, trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, việc phát triển KCN có tầm quan trọng mang tính chiến lược, mang lại những tác động tích cực đến sự phát triển chung của nền kinh tế.

Nhận thức được vai trò quan trọng của lĩnh vực này, Đảng và Nhà nước luôn chú trọng xây dựng các chính sách pháp lý nhằm tạo ra một chế định cụ thể, dễ áp dụng và liên tục được hoàn thiện để phù hợp với bối cảnh, yêu cầu của từng thời kỳ, hướng tới mục tiêu tạo dựng môi trường pháp lý ổn định, ngày càng thuận lợi cho các hoạt động đầu tư, tiến tới hội nhập và bắt kịp môi trường kinh tế toàn cầu.

Thời điểm mô hình KCN mới được hình thành và phát triển, nhằm thực hiện chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo đường lối đổi mới đề ra tại Đại hội lần thứ VI của Đảng năm 1986, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật quan trọng, tạo hành lang pháp lý cho thành lập và hoạt động KCX, KCN như: Nghị định số 322/HĐBT ngày 18/10/1991 của Hội đồng Bộ trưởng về Quy chế khu chế xuất; Nghị định số 192/CP ngày 28/12/1994 của Chính phủ về Quy chế khu công nghiệp. Đến thời điểm này, với sự  chuyển biến đáng kể của các mô hình KCN phổ biến trên thế giới, để thích ứng với sự vận động không ngừng của nền kinh tế toàn cầu, Chính phủ đã ban hành các Nghị định số 164/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 và số 114/2015/NĐ-CP ngày 09/11/2015 sửa đổi, bổ sung Nghị định số 29/2008/NĐ-CP ngày 14/3/2008 quy định về KCN, KCX, KKT.

Ngày 22/5/2018, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 82/2018/NĐ-CP để thay thế các Nghị định nêu trên. Đây là cơ sở pháp lý hiện hành áp dụng cho các đối tượng liên quan đến hoạt động của KCN, một bước tiến mới trong tiến trình hoàn thiện các quy phạm pháp luật điều các chỉnh quan hệ pháp luật đặc biệt quan trọng này trong thời kỳ hội nhập. Tuy nhiên, sau hơn ba năm áp dụng, Nghị định số 82/2018/NĐ-CP đã bộc lộ nhiều bất cập, vướng mắc, cụ thể hơn là thiếu tính đồng bộ và không thống nhất, xung đột đa chiều với các văn bản pháp luật chuyên ngành khác.

Những tồn tại đáng tiếc này đã tác động tiêu cực về mặt quản lý Nhà nước cũng như hoạt động kinh doanh của các nhà đầu tư. Cụ thể là những quy định cứng nhắc, không hiệu quả về mặt thực tiễn này đã gây khó khăn, lúng túng cho chính cơ quan Nhà nước trong việc kiểm soát, phối hợp và hỗ trợ các nhà đầu tư trong quá trình triển khai và thực hiện dự án. Như vậy, với nhiều bất cập trong chính sách hiện hành về KCN cũng như sự cồng kềnh thiếu tính phối hợp giữa các cơ quan Nhà nước đã không chứng minh được một cách hiệu quả tinh thần “một cửa, tại chỗ” theo chủ trương đơn giản hoá thủ tục hành chính của Nhà nước. Điều này đã ảnh hưởng không nhỏ tới sức hút đầu tư, gây hoang mang cho các doanh nghiệp nước ngoài, các tập đoàn kinh tế đa quốc gia bởi những chính sách thiếu ổn định, thiếu tính khích lệ nhằm hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao hiệu quả hoạt động trong suốt quá trình thực hiện dự án.

Từ những tồn tại được phác hoạ trên đây, yêu cầu sửa đổi Nghị định 82/2018/NĐ-CP đang là một đòi hỏi thiết thực nhằm mục đích hoàn thiện và tạo đà cho tiến trình xây dựng một  hành lang pháp lý chuyên biệt liên quan đến mọi hoạt động của KCN. Yêu cầu này cần sớm được thực hiện để thích ứng với sự thay đổi ngày càng nhanh từ các hoạt động trong lĩnh vực đầu tư, kinh doanh cũng như xây dựng cơ chế điều chỉnh các mô hình KCN mới nhằm bắt kịp và tiến tới hội nhập với thế giới trong cuộc cách mạng công nghiệp thời đại 4.0.

Nắm bắt được tình hình này cùng với yêu cầu hết sức cấp bách về việc cải thiện quy phạm, giải quyết các vướng mắc, bất cập phát sinh trong quá trình áp dụng quy định hiện hành, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã triển khai chương trình xây dựng dự thảo Nghị định thay thế Nghị định số 82/2018/NĐ-CP nhằm tạo khung pháp lý mới điều chỉnh các hoạt động liên quan đến KCN. Sau khi dự thảo được các bộ, ngành thẩm định, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã triển khai việc lấy ý kiến về nội dung dự thảo Nghị định bằng văn bản và tổ chức họp trực tuyến với các ngành, các địa phương, doanh nghiệp trên toàn quốc để thống nhất ý kiến đóng góp nhằm hoàn thiện dự thảo và trình Chính phủ ban hành. Đây chính là cơ sở để tác giả bài viết có cơ hội tiếp cận nội dung dự thảo Nghị định và triển khai xây dựng bài viết này.

Trên tinh thần đóng góp một phần quan điểm pháp lý để xây dựng dự thảo, trong khuôn khổ bài viết này, tác giả sẽ đề cập đến (i) những điểm mới mang yếu tố tích cực, (ii) các nội dung còn bất cập, khó áp dụng về mặt thực tế và (iii) đưa ra một số kiến nghị với mong muốn góp phần xây dựng dự thảo Nghị định trên cơ sở liên hệ hoạt động thực tiễn của hai đối tượng chính là chủ đầu tư xây dựng, quản lý hạ tầng và các doanh nghiệp thứ cấp đầu tư tại các KCN trong thời gian qua. 

Thứ nhất, những điểm tích cực

Dự thảo Nghị định đã củng cố và giải quyết tương đối đầy đủ và có hệ thống một số vướng mắc điển hình liên quan đến quản lý, điều chỉnh quy hoạch; tháo gỡ khó khăn cho các dự án mới thành lập hoạt động theo hình thức doanh nghiệp chế xuất bị kéo dài thời gian thực hiện thủ tục xin cấp Giấy chứng nhận đầu tư do phải phụ thuộc vào ý kiến của cơ quan hải quan về khả năng đáp ứng các điều kiện; xây dựng cơ chế pháp lý cụ thể hơn về KCN – Đô thị - Dịch vụ, tạo điều kiện cho nhà đầu tư tự đánh giá khả năng tài chính và năng lực nội tại để đáp ứng các điều kiện của mô hình KCN mới mẻ này; bổ sung mô hình KCN chuyên sâu, KCN công nghệ cao hướng tới đa dạng hoá các hình thức phát triển KCN theo định hướng chuyên môn hoá, tránh tình trạng phát triển KCN một cách rập khuôn theo hướng đa ngành, đa lĩnh vực và chủ yếu tập trung đáp ứng mục tiêu tăng diện tích lấp đầy. Ngoài ra, dự thảo Nghị định đã bổ sung một số điểm mới mang lại lợi ích thiết thực cho các nhà đầu tư phát triển, kinh doanh và quản lý hạ tầng KCN. Cụ thể:

1. Khoản 1, điều 19 của dự thảo Nghị định quy định: Dự án đầu tư xây dựng và kinh doanh kết cấu hạ tầng KCN được huy động tiền thuê lại đất ứng trước từ các nhà đầu tư có nhu cầu thuê lại đất trong KCN để đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng của KCN. Đây là một quy định mới khá linh hoạt tạo điều kiện cho chủ đầu tư triển khai hạ tầng KCN đa dạng hóa hình thức huy động vốn. Thực tế, ngoài vốn chủ sở hữu phải đạt tỉ lệ tối thiểu từ 15 đến 20% tổng mức đầu tư của dự án, để đảm bảo dự án đủ khả năng thực hiện hiệu quả, mang lại lợi ích tiềm tàng thì chủ đầu tư phát triển hạ tầng KCN phải huy động nguồn vốn từ các kênh chính thống như phát hành trái phiếu, thực hiện thủ tục tăng vốn điều lệ hoặc thu xếp nguồn lực tài chính khác từ các tổ chức tín dụng.

Tuy nhiên, không phải tổ chức nào cũng đủ năng lực và uy tín để đảm bảo có thể thoả mãn các điều kiện theo yêu cầu của các tổ chức cung ứng tiền tệ nhằm mục đích tăng cường nguồn lực tài chính. Do vậy, quy định về việc ứng trước tiền thuê từ các nhà đầu tư có nhu cầu thuê lại đất trong KCN là một hướng mở hết sức thiết thực dành cho đối tượng là chủ đầu tư xây dựng, kinh doanh hạ tầng KCN, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa; 

2. Dự thảo Nghị định ủy quyền/phân cấp việc xem xét, quyết định đối với các dự án cấp mới, điều chỉnh mở rộng dự án đầu tư xây dựng và kinh doanh kết cấu hạ tầng KCN theo một trong hai phương án: 

- Ủy quyền cho Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư;

- Phân cấp cho Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.

Quy định này giảm thiểu thủ tục hành chính tạo điều kiện cho doanh nghiệp rút ngắn được thời gian hoàn thiện thủ tục, hạn chế được sự chồng chéo, rườm rà như những tồn tại phát sinh trong quá trình áp dụng Nghị định 82/NĐ-CP;

3. Dự thảo Nghị định quy định Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xem xét, quyết định việc cho phép dự án đầu tư được triển khai trước khi hoàn thành các thủ tục về xây dựng, lao động, đất đai và các thủ tục khác có liên quan thuộc thẩm quyền chấp thuận, phê duyệt của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh hoặc Ban quản lý khu công nghiệp tạo điều kiện cho doanh nghiệp đầu tư hạ tầng KCN thực hiện song song việc triển khai thực hiện dự án và hoàn thiện thủ tục hành chính của Dự án (khoản 5, Điều 18).

Thứ hai, những điểm cần sửa đổi

Bên cạnh những điểm tích cực nêu trên, trong quá trình rà soát và nghiên cứu nội dung các quy định của dự thảo Nghị định, tác giả bài viết cũng xác định được những điểm còn bất cập, chưa phù hợp với thực tế khách quan, dẫn tới tình trạng những vướng mắc từ Nghị định 82 vẫn chưa được khắc phục một cách triệt để và toàn diện. Với mong muốn đóng góp một phần ý kiến để hoàn thiện và tạo dựng một môi trường pháp lý bình đẳng, minh bạch và phù hợp với thực tiễn, tác giả bài viết mạnh dạn đóng góp ý kiến với những điểm còn chưa phù hợp của dự thảo như sau: 

1. Bất cập điển hình nhất của dự thảo Nghị định là cho phép nhà đầu tư có nhu cầu thuê lại đất trong khu công nghiệp được đề nghị Ban quản lý các KCN quyết định các biện pháp về giá khi giá cho thuê lại đất tăng trên 30% so với khung giá đất đã đăng ký. Điều này đi ngược lại với tính tự do thị trường, trái với nguyên tắc tối đa hoá lợi nhuận của doanh nghiệp. Biết rằng, “bàn tay hữu hình” là công cụ để Nhà nước điều tiết, vận hành kinh tế vĩ mô thông qua các cơ chế, chính sách. Tuy nhiên, việc mở rộng quyền đối với nhà đầu tư thứ cấp có nhu cầu thuê lại đất trong KCN như nội dung dự thảo Nghị định đề cập theo chúng tôi là không phù hợp và thể hiện một cách rõ nét việc Nhà nước can thiệp, tác động quá sâu vào kế hoạch hoạt động và chính sách nội bộ của doanh nghiệp. Việc tăng, giảm giá là quyền của chủ đầu tư dựa trên cơ sở đánh giá các yếu tố khách quan như xu hướng thị trường, điều chỉnh giá tương ứng với mức tăng của chi phí vật tư, chi phí quản lý, chi phí bảo trì cơ sở hạ tầng…

Chưa kể đến, việc điều chỉnh giá còn phụ thuộc vào các lợi ích hữu hình về vị trí, tiện ích lân cận hoặc chính sách bảo trì, bảo dưỡng cơ sở hạ tầng của khu này ưu việt hơn những khu khác. Do vậy, cần phải xem xét lại quy định về cơ chế tổ chức hiệp thương về giá theo đề nghị của nhà đầu tư thứ cấp. Từ phân tích trên đây, tác giả bài viết đề xuất giữ nguyên các điều khoản điều chỉnh về vấn đề này theo tinh thần khoản 2, Điều 31, Nghị định 82/NĐ-CP và loại bỏ nội dung điểm b, khoản 3, Điều 24 ra khỏi dự thảo Nghị định.

2. Một điểm mới rất tích cực của dự thảo Nghị định là chính sách phát triển KCN chuyên sâu, KCN khoa học công nghệ. Trên thực tế, mô hình phát triển các KCN của các nước trong khu vực đã có sự thay đổi đáng kể theo hướng chuyên ngành, chuyên môn hoá (điển hình là Hàn Quốc và Thái Lan) để tiệm cận với xu thế mới đang được vận hành theo cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Trong khi đó, các KCN của Việt Nam vẫn phát triển theo hướng đa ngành và hầu hết là tập trung hoàn tất yếu tố lấp đầy diện tích, thực hiện mục tiêu ngắn hạn, thiếu tính bền vững và chuyên môn hoá.

Do vậy, việc bổ sung các mô hình KCN chuyên sâu, KCN khoa học công nghệ là tín hiệu đáng mừng thể hiện một hướng tư duy mới hiệu quả, tiến tới bắt kịp xu thế chung về phát triển KCN của các nước trên thế giới. Tuy nhiên, dự thảo chưa nêu rõ được tiêu chuẩn áp dụng, tiêu chuẩn thiết kế, tính đặc thù của những loại hình KCN mới này để nhà đầu tư có cơ sở tự đánh giá năng lực của mình có đáp ứng điều kiện cần có của mô hình KCN chuyên sâu, KCN Công nghệ hay không trước khi lựa chọn mô hình cụ thể để triển khai thực hiện. Bên cạnh đó, ngoài những ưu đãi cho đối tượng là nhà đầu tư thứ cấp thì quy định vẫn mang tính chung chung chưa thực sự rõ ràng về lĩnh vực ngành nghề nào được ưu tiên hoặc phải có điều kiện gì mới được thực hiện dự án đầu tư tại KCN chuyên sâu này.

Tác giả bài viết cho rằng Ban soạn thảo cần rút kinh nghiệm đối với các vấn đề nêu trên từ việc đã quy định chung chung, không cụ thể mô hình KCN – Đô thị - Dịch vụ trong nghị định 82/NĐ-CP dẫn đến hậu quả là đến thời điểm này, dự thảo Nghị định đã phải sửa đổi, bổ sung cụ thể các quy định về điều kiện xem xét, chấp thuận chủ trương về đầu tư dự án đối với mô hình KCN – Đô thị - Dịch để phù hợp với yêu cầu thực tế.  

3. Điểm a, khoản 2, Điều 4, dự thảo Nghị định quy định về diện tích tối thiểu để phát triển một KCN là 75 ha là bất hợp lý, không hiệu quả và trái với nhu cầu thực tế, đặc biệt là không phù hợp với yêu cầu then chốt là phát triển KCN tập trung như định hướng tầm nhìn của các nghị quyết TW thời gian gần đây. Để làm rõ nhận định này, tác giả bài viết xin xác định cụ thể bốn yếu tố thể hiện sự bất hợp lý của mô hình KCN nhỏ này. Cụ thể:  

- Tỉ lệ đất thương phẩm còn lại không đáng kể nếu thực hiện đúng cơ cấu sử dụng đất theo chỉ tiêu, tỉ lệ về xây dựng hạ tầng KCN;

- Quy trình triển khai các công đoạn thực hiện không có tính đặc thù như việc giảm thiểu thủ tục, các điều kiện ưu đãi so với quy trình thực hiện KCN có quy mô lớn hơn nhưng diện tích đất khai thác lại rất hạn chế dẫn đến hiệu quả kinh tế trong quá trình hoạt động sẽ không cao;

- Thiếu tính hấp dẫn đối với những doanh nghiệp lớn, tập đoàn đa ngành luôn có nhu cầu quy mô diện tích lớn để thu hút các doanh nghiệp vệ tinh, công ty sản xuất sản phẩm phụ trợ nhằm giảm thiểu chi phí lưu thông hàng hoá để giảm giá thành các sản phẩm, nguyên liệu đầu vào.

Dẫn chứng cụ thể: Năm 2006, Tổng Công ty Phát triển Đô thị Kinh Bắc – CTCP đã thu hút được hãng Canon (một tập đoàn điện tử nổi tiếng thế giới) vào đầu tư nhà máy sản xuất máy in lazer tại KCN Quế Võ (quy mô diện tích trên 300 ha). Sau hơn một năm kể từ thời điểm Canon triển khai xây dựng nhà máy, diện tích lấp đầy của KCN này đã phủ kín trên 50% tỉ lệ diện tích toàn khu vì đã thu hút thêm được các doanh nghiệp vệ tinh sản xuất phụ kiện cho Công ty Canon. Điển hình là Mitac, Seiyo, Dragon Jet, VS (sản xuất cấu kiện nhựa cho máy in lazer), Sentec (sản xuất cấu kiện kim loại), Longtech (sản xuất ốc vít và hệ thống lò xo cho máy in). Như vậy, nếu diện tích KCN được xác định tối thiểu là 75 ha thì cơ hội thu hút các tập đoàn đa quốc gia, những doanh nghiệp hàng đầu thế giới là bất khả thi và không hiệu quả.

- Dự thảo chỉ đưa ra mức tỉ lệ diện tích mà không có nội dung thể hiện tính ưu việt hoặc lợi ích mang lại của mô hình KCN nhỏ này so với cơ chế hoạt động của cụm công nghiệp theo quy định hiện hành. Xét về diện tích thì không có cơ sở để phân định sự khác biệt so với cụm công nghiệp có quy mô diện tích tối đa.

- Vấn đề lưu trú trong KCN cũng là một vướng mắc tồn tại từ Nghị định 82 và chưa có giải pháp nào thực sự hiệu quả để giải quyết vấn đề một cách triệt để. Tuy nhiên, tại khoản 2, Điều 22 của dự thảo Nghị định vẫn có quy định tương tự, sự khác biệt chỉ thể hiện ở trật tự sắp xếp nội dung điều khoản nhưng về bản chất thì không khắc phục được những bất cập của quy định cũ. Cụ thể: Điều luật cho phép địa phương chủ động quy định về số lượng và các trường hợp được lưu trú tại KCN mà không có hành lang chung để áp dụng các mức độ về số lượng người lao động tối đa được lưu trú trong KCN là bao nhiêu, tiêu chuẩn nhà lưu trú quy định thế nào. Điều này dễ dẫn đến tình trạng xét duyệt tràn lan, thiếu nhất quán, không đồng bộ giữa các địa phương. Theo tác giả, việc lưu trú trong KCN là vấn đề nhạy cảm, không quy định điều kiện, tiêu chuẩn của người lưu trú dễ vi phạm dẫn đến tình trạng vô hiệu hoá việc không cho phép cư dân sinh sống trong KCN theo quy định tại khoản 1, Điều 22 của dự thảo Nghị định. Trên thực tế, một số doanh nghiệp sử dụng  nhiều lao động nước ngoài sẽ hình thành khu vực cộng đồng sống và sinh hoạt trong KCN, KCX.

Do vậy, tác giả bài viết đề xuất dự thảo Nghị định nên xây dựng thêm nội dung về các điều kiện, tiêu chí và đặc biệt là quy định về số lượng tối đa lao động được lưu trú trong KCN. Đồng thời, cần các bổ sung các chế tài mang tính răn đe mạnh mẽ với những chủ đầu tư sự án có động thái vi phạm về điều kiện lưu trú thay vì những quy định chung chung như quy định tại Điều 22 của dự thảo Nghị định.

Thứ ba, những điểm cần bổ sung

Để các hoạt động liên quan đến KCN thực sự mang lại hiệu quả, thu hút ngày càng nhiều các doanh nghiệp lớn trên thế giới, người viết cho rằng, nên chăng các nhà hoạch định chính sách pháp lý cần nhận thức rõ tầm quan trọng của việc ban hành một văn bản quy phạm pháp luật độc lập, cụ thể nhằm điều chỉnh trực tiếp và có hệ thống về chế định KCN, KKT, KCX, KCNC. Trước hết, khi chưa hội đủ những yếu tố cần thiết để ban hành một văn bản luật chuyên biệt điều chỉnh trực tiếp về KCN, tác giả bài viết  xin đề xuất, ngoài việc tuân thủ luật chung trong lĩnh hoạt động của KCN là luật đầu tư hiện hành, dự thảo Nghị định cần xây dựng các nội dung mang tính độc lập tương đối, không bị chi phối, phụ thuộc quá nhiều từ các văn bản pháp luật chuyên ngành khác đối với hai vấn đề đáng quan tâm sau đây:

1. Với tính chất là văn bản chuyên ngành điều chỉnh trực tiếp về KCN, dự thảo cần xây dựng cơ chế riêng, độc lập với luật nhà ở và luật kinh doanh bất động sản để xây dựng nội dung điều chỉnh trực tiếp vấn đề quy hoạch, thủ tục hành chính đối với mô hình KCN – Đô thị - Dịch vụ nhằm thiết lập hành lang pháp lý đặc thù, riêng biệt đối với việc tạo lập nhà ở trong KCN. Cụ thể hơn là không áp dụng cơ chế đấu giá, đấu thầu khi triển khai hạng mục “Đô thị”, một hạng mục gắn liền mật thiết, không tách rời  với mô hình KCN – Đô thị - Dịch vụ.

Trường hợp không có cơ chế riêng, chuyên biệt đối với vấn đề này thì sẽ gây khó khăn một cách phi lý cho chủ đầu tư lựa chọn mô hình KCN – Đô thị - Dịch vụ để thực hiện dự án. Thực tế, đối với mô hình  này thì cả ba hạng mục KCN,  Đô thị và Dịch vụ phải được coi là một thể thống nhất, không tách rời, có các chức năng liên quan đến nhau. Trong đó, KCN sẽ là hạng mục có chức năng chính yếu (về mặt thủ tục thì trước khi triển khai, mô hình KCN tổng hợp này đã được chấp thuận và hoàn tất về việc lựa chọn chủ đầu tư), hạng mục Đô thị và dịch vụ chỉ có chức năng hỗ trợ, cung ứng các dịch vụ và tiện ích xã hội, tiện ích công cộng cho KCN. Tuy nhiên, khi triển khai hạng mục “Đô thị” thì chủ đầu tư lại phải tuân thủ các luật chuyên ngành khác trong đó có cơ chế đấu giá, đấu thầu và một số cơ chế liên quan khác thì mới đủ điều kiện pháp lý của người sử dụng đất nhằm tiếp tục thực hiện dự án. Điều này hoàn toàn không hợp lý và cần bổ sung, sửa đổi để hoàn thiện cho phù hợp với tình hình thực tế.

2. Ưu đãi đầu tư luôn là mối quan tâm hàng đầu của các đơn vị xây dựng và triển khai hạ tầng KCN cũng như điểm mấu chốt thu hút các nhà đầu tư thứ cấp. Tuy nhiên, có một tồn tại mà cho đến thời điểm này vấn đề ưu đãi đầu tư vẫn hoàn toàn chưa được cải thiện trong nội dung dự thảo. Cụ thể: Tại khoản 1 Điều 18 của dự thảo quy định: “Khu công nghiệp là địa bàn ưu đãi đầu tư, được hưởng ưu đãi đầu tư áp dụng đối với địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn theo quy định của pháp luật về đầu tư. Dự án đầu tư trong khu công nghiệp có địa điểm đầu tư tại địa bàn cấp huyện thuộc địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn được hưởng ưu đãi đầu tư như quy định đối với dự án đầu tư tại địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn theo quy định của pháp luật về đầu tư”.

Quy định này tương đối nhất quán với quy định của luật đầu tư hiện hành. Cụ thể, điểm 2, phần III, danh mục A, Phụ lục II, Nghị định 31/2021/NĐ-CP: “Xây dựng, kinh doanh kết cấu hạ tầng khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu chức năng trong khu kinh tế thuộc ngành nghề đặc biệt ưu đãi đầu tư”. Tại Mục 55, Phụ lục III, Nghị định 31/2021/NĐ-CP: “Khu CN, khu chế xuất, cụm công nghiệp được thành lập theo quy định của Chính phủ thuộc địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn”. Tuy nhiên, khi xét ưu đãi cụ thể, doanh nghiệp được hưởng ưu đãi phải đối chiếu, áp dụng theo quy định của pháp luật chuyên ngành về thuế, đất đai, tín dụng, kế toán và pháp luật có liên quan (khoản 3, Điều 18 của dự thảo Nghị định). Bất cập là hiện nay hệ thống các quy định về ưu đãi đầu tư tại các văn bản chuyên ngành vẫn chưa có sự đồng bộ và tương thích với Nghị định về KCN và Luật Đầu tư đặc biệt là quy định của pháp luật về thuế. Điều này được chứng minh bởi hai dẫn chứng sau đây: 

(i) Phân biệt địa bàn đối với ưu đãi thuế: Theo quy định tại Luật Thuế Thu nhập doanh nghiệp năm 2008, sửa đổi bổ sung năm 2013 và Nghị định 218/2013/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật sửa đổi bổ sung một số điều Luật thuế Thu nhập doanh nghiệp thì có sự phân biệt địa bàn đối với các KCN: tại khoản 3 Điều 16, Nghị định 218/2013/NĐ-CP quy định rõ: “Thu nhập của DN từ thực hiện dự án đầu tư mới tại KCN (trừ KCN thuộc địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội thuận lợi)”. Bất ổn hơn, chỉ sau 9 tháng kể từ thời điểm Nghị định số 218/2013/NĐ-CP có hiệu lực thì đến thời điểm ngày 15/11/2014 Chính Phủ ban hành Nghị định số 91 về việc sửa đổi, bổ sung Nghị định số 218/2013/NĐ-CP về hướng dẫn thi hành Luật Thuế Thu nhập doanh nghiệp lại có quy định: “trường hợp khu công nghiệp nằm trên cả địa bàn thuận lợi và địa bàn không thuận lợi thì việc xác định ưu đãi thuế đối với khu công nghiệp căn cứ vào vị trí thực tế của dự án đầu tư trên thực địa” (khoản 6, Điều 1, Nghị định 91).

Theo đó, một loạt địa bàn các KCN trong Quy hoạch Phát triển các KCN Việt Nam, nếu được thành lập và thuộc các địa bàn này cũng sẽ không được hưởng ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp. Thực tế, hiện nay có tới 80% KCN là nằm ở các vùng kinh tế trọng điểm, nếu không ưu đãi đầu tư, thì không khuyến khích được nhà đầu tư chọn các KCN để xây dựng nhà máy. Hệ quả là, các KCN hiện nay, tuy có thuận lợi về vị trí, hạ tầng, nhưng chi phí đền bù, xây dựng hạ tầng cao, dẫn đến giá thuê lại đất trong KCN rất cao, chưa kể phải đóng thêm phí hạ tầng, các phí phục vụ hoạt động sản xuất khác, điều này giảm đáng kể việc thu hút và khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào KCN. 

(ii) Khoản 3, Điều 20 NĐ 31/2021/NĐ-CP quy định: “3. Dự án đầu tư thuộc ngành, nghề ưu đãi đầu tư thực hiện tại địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn được hưởng ưu đãi đầu tư như quy định đối với dự án đầu tư thuộc địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn”.

Như vậy, đối chiếu với các quy định tại phụ lục II và III Nghị định nêu trên đây thì Dự án xây dựng, kinh doanh hạ tầng kỹ thuật KCN của chủ đầu tư hạ tầng kỹ thuật KCN phải được hưởng ưu đãi đầu tư áp dụng đối với Dự án đầu tư thuộc địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn và được hưởng ưu đãi về thuế suất. Tuy nhiên, tại Nghị định 218/2013/NĐ-CP chỉ ghi nhận chung chung “thu nhập của doanh nghiệp từ thực hiện dự án đầu tư mới tại khu công nghiệp” và trong điều khoản miễn giảm về thuế thu nhập doanh nghiệp tại khoản 3, Điều 20, NĐ 218/2013/NĐ-CP mà không phân định rõ dự án hạ tầng và dự án của nhà đầu tư thứ cấp dẫn đến sự áp dụng tùy nghi của cơ quan nhà nước khi xét ưu đãi vì dự án hạ tầng và dự án của nhà đầu tư thứ cấp đều được coi là dự án đầu tư mới tại KCN. 

Từ những lập luận đã trình bày trên đây, tác giả bài viết mong muốn các cơ quan ban hành chính sách cần hoàn thiện và duy trì sự ổn định của các quy định về ưu đãi đầu tư, đặc biệt là ưu đãi về thuế nhằm đảm bảo lợi ích cho các nhà đầu tư trong KCN. Thực tế trong thời gian qua, hệ thống pháp luật về ưu đãi đầu tư, đặc biệt là ưu đãi thuế liên tục có những thay đổi đột ngột đã ảnh hưởng tới quyền lợi của các đối tượng hoạt động trong KCN. Để giải quyết vấn đề này, theo tác giả, các luật chuyên ngành về thuế và đất đai chỉ nên xác định mức, tỉ lệ ưu đãi mà tránh xác định đối tượng (ví dụ KCN được xác định là đối ưu đãi theo luật đầu tư và Nghị định 82 nhưng Thuế Thu nhập doanh nghiệp lại phân định địa bàn KCN thuộc diện có vị trí thuận lợi thì không được hưởng ưu đãi điều này thể hiện rõ nét sự xung đột pháp luật giữa các văn bản pháp luật hiện hành. Trong khi đó, luật thuế chỉ nên dừng lại trong khuôn khổ xác định mức và luật đất đai chỉ được xác định về thời hạn nhưng rõ ràng trong trường hợp này luật thuế đã tác động đến cả đối tượng được hưởng ưu đãi). 

Cuối cùng, thêm một lần nữa tác giả bài viết cho rằng cần phải xây dựng một văn bản quy phạm chuyên biệt, điều chỉnh một cách phổ quát các vấn đề liên quan đến lĩnh vực hoạt động KCN, tránh tình trạng ban hành nhiều văn bản điều chỉnh nhưng thiếu đồng bộ, không thống nhất gây tâm lý hoang mang, mất niềm tin vào tính ổn định của hệ thống pháp luật Việt Nam của các nhà đầu tư lớn trên thế giới. Do đó, cần tạo một hành lang pháp lý rõ ràng, nhất quán, có tính ổn cao và hiệu lực lâu dài, đảm bảo hơn nữa quyền và lợi ích hợp pháp của cộng đồng doanh nghiệp.

Luật sư LƯU HẢI VŨ

Phó Giám đốc Công ty Luật TNHH Nguyễn Hướng và Cộng sự

Chế tài xử lý đối với hành vi vi phạm về phát hành, bán trái phiếu trái quy định