/ Nghiên cứu - Trao đổi
/ Hoàn cảnh thay đổi cơ bản và sự kiện bất khả kháng dưới góc nhìn pháp lý

Hoàn cảnh thay đổi cơ bản và sự kiện bất khả kháng dưới góc nhìn pháp lý

23/02/2023 09:05 |

(LSVN) - Hoàn cảnh thay đổi cơ bản và sự kiện bất khả kháng là một trong những vấn đề mà trong quá trình giao kết và thực hiện hợp đồng các bên không thể lường trước được. Do đó, phân tích các quy định của pháp luật có liên quan, nêu một số hạn chế, vướng mắc của pháp luật và đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện các quy định của pháp luật về hoàn cảnh thay đổi cơ bản, sự kiện bất khả kháng.

Ảnh minh họa.

Hợp đồng là phương tiện pháp lý để các bên thỏa mãn những lợi ích phù hợp với nhu cầu khi giao kết đồng thời cũng là phương tiện quan trọng thúc đẩy nền kinh tế phát triển phù hợp với cơ chế vận hành của nền kinh tế thị trường trong xu hướng hiện nay. Về nguyên tắc khi tham gia vào một quan hệ hợp đồng, các bên phải tôn trọng và thực hiện đúng những nội dung đã thỏa thuận dù thực tế khi triển khai có thể gặp những sự kiện pháp lý mà các bên không thể lường trước. Có nghiên cứu cho rằng “Hợp đồng sinh ra không phải là để triệt tiêu mà là để thực hiện nhằm để đem lại các lợi ích hợp pháp mà hai bên mong đợi’ là để thực hiện không phải để triệt tiêu”. Tuy nhiên, từ thực tiễn áp dụng cho thấy quan hệ hợp đồng không tồn tại “bất biến” mà nó  luôn vận động và chịu sự tác động của nhiều yếu tố khách quan mà các bên không thể dự liệu thậm chí chi phối các điều khoản mà các bên đã thỏa thuận. Do đó, để bảo đảm lẽ công bằng và để các bên không lạm dụng quy định của pháp luật trong trường hợp có hoàn cảnh thay đổi cơ bản và sự kiện bất khả kháng để tạo cơ chế điều chỉnh hợp đồng thì việc nghiên cứu và làm rõ về mặt lý luận các vấn đề nêu trên là hết sức cần thiết nhằm để cơ chế tạo điều kiện cho hợp đồng được thực hiện ngay cả khi có sự thay đổi.

1. Một số vấn đề lý luận về hoàn cảnh thay đổi cơ bản và sự kiện bất khả kháng trong quan hệ hợp đồng

Sự kiện bất khả kháng là một khái niệm pháp lý tương đối quen thuộc không chỉ được ghi nhận trong hệ thống pháp luật của Việt Nam mà còn được ghi nhận trong hệ thống pháp luật của các nước trên thế giới. Sự kiện bất khả kháng được ghi nhận lâu đời trong hệ thống pháp luật dân sự của các nước, cụ thể theo Bộ luật Dân sự Việt Nam là “Sự kiện xảy ra một cách khách quan không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép” (khoản 1, Điều 156, Bộ luật Dân sự năm 2015) hoặc khái niệm bất khả kháng được đề cập tại từ điển Black’s Law Dictionary là “một sự kiện hoặc hiện tượng không thể lường trước được và không thể khắc phục được” hoặc tại tại mục IV, khoản 1, Điều 79, Công ước Viên về mua bán hàng hóa quốc tế (viết tắt là CISG) không đề cập đến sự kiện bất khả kháng nhưng đã đưa ra khái niệm “trở ngại” mà bên vi phạm gặp phải, có thể được miễn trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ. Nhìn chung cách hiểu và định nghĩa về sự kiện bất khả kháng của pháp luật các nước có thể khác nhau nhưng vẫn có thể xem có sự đồng nhất về khái niệm khi sự kiện đó xảy ra một cách khách quan, các bên không thể lường trước được.

Từ những phân tích trên, trong quan hệ hợp đồng để có thể khẳng định một sự kiện pháp lý là sự kiện bất khả kháng để từ chối thực hiện được nghĩa vụ khi hội đủ các yếu tố, đó là: Khách quan, không thể lường trước được và không thể khác phục được. Dựa theo những dấu hiệu nhận biết như đã đề cập, trong trường hợp muốn được miễn trừ nghĩa vụ hợp đồng do một sự kiện pháp lý tác động cần phải xem xét nguyên nhân dẫn đến sự kiện pháp lý là trực tiếp do con người hay do những yếu tố khách quan, có chịu sự tác động của các chủ thể trong quan hệ hợp đồng hay không? Các bên tại thời điểm ký kết có thể không dự liệu trước được những thay đổi hoặc không thể kiểm soát được những sự kiện xảy ra trong quá trình thực hiện hợp đồng nên ảnh hưởng trực tiếp đến việc thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng cho dù một sự kiện pháp lý dù có thể đã đáp ứng đủ các điều kiện để được xem là sự kiện bất khả kháng nhưng bên còn lại không đương nhiên được miễn trách nhiệm đối với hành vi vi phạm của mình nếu không chứng minh được mình đã nỗ lực hết sức để khắc phục nhưng hậu quả vẫn xảy ra. Từ thực tế nói trên đủ cơ sở để khẳng định, cho dù trong một số trường hợp khi có bất kỳ sự kiện pháp lý nào xảy ra trên thực tế nhưng bên bị ảnh hưởng không nỗ lực để khắc phục thì vẫn phải chịu trách nhiệm pháp lý đối với các nghĩa vụ hợp đồng với bên còn lại.

Tóm lại, từ những phân tích trên có thể thấy pháp luật Việt Nam cũng như pháp luật của các nước cơ bản thừa nhận sự kiện bất khả kháng là một sự kiện pháp lý mà bên bị ảnh hưởng có thể được miễn xem xét trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ hợp đồng khi sự kiện đó hội đủ các yếu tố cơ bản và bản thân đã nỗ lực để khắc phục nhưng không thể khắc phục được. Như vậy, việc nghiên cứu rõ về mặt lý luận của sự kiện bất khả kháng đóng một vai trò hết sức quan trọng trong việc xác định trách nhiệm của các bên để miễn trừ trách nhiệm pháp lý liên quan đến việc thực hiện nghĩa vụ hợp đồng của các bên trong quá trình thực hiện hợp đồng.

Khác với sự kiện bất khả kháng, hoàn cảnh thay đổi cơ bản là một khái niệm mới xuất hiện lần đầu trong Bộ luật Dân sự năm 2015 tại điều 420. Mặc dù điều luật quy định việc thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản và đưa ra các điều kiện để nhận biết đó có thể do nguyên nhân khách quan xảy ra sau khi giao kết, hoặc tại thời điểm giao kết các bên không thể lường trước được, hoặc hoàn cảnh thay đổi lớn đến mức nếu các bên biết thì hợp đồng đã không được giao kết hoặc giao kết với nội dung khác, hoặc việc tiếp tục thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi ảnh hưởng nghiêm trọng cho bên còn lại hoặc bên có lợi ích đã áp dụng mọi biện pháp nhưng không thể ngăn chặn, giảm thiểu mức độ ảnh hưởng của việc thay đổi nhưng không có một định nghĩa cơ bản để xác định thế nào là hoàn cảnh thay đổi cơ bản.

Về vấn đề này, bộ quy tắc Unidorit về hợp đồng thương mại quốc tế khái quát  một hoàn cảnh được xem là thay đổi cơ bản nếu nó gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự cân bằng của hợp đồng hoặc làm cho chi phí thực hiện tăng quá cao, hoặc giá trị thực hiện nghĩa vụ giảm quá thấp. Theo cách diễn đạt này có thể hiểu khi đề cập đến hoàn cảnh thay đổi cơ bản trong quá trình thực hiện hợp đồng tức đề cập đến một hoàn cảnh khách quan mà các bên không dự liệu hoặc không thể dự liệu được khi ký kết hợp đồng. Thực tế chứng minh rằng, từ những điều kiện về hoàn cảnh thay đổi cơ bản được đề cập trong chính điều luật khó để nhận diện một cách khái quát một khái niệm tổng quan về hoàn cảnh thay đổi cơ bản? Vì không thể nhận diện một cách khái quát nên đôi khi có sự nhầm lẫn các dấu hiệu của sự kiện bất khả kháng và cơ chế để điều chỉnh nghĩa vụ hợp đồng trong trường hợp hoàn cảnh thay đổi cơ bản đôi khi các bên dễ bị lạm dụng. Vậy khi một sự kiện pháp lý mà nó có đủ dấu hiệu dẫn đến việc hợp đồng không thể thực hiện do hoàn cảnh thay đổi cơ bản thì điều kiện xác minh điều kiện này mang tính định tính (mô tả) hơn là định lượng (giải thích, minh chứng). Thực tiễn pháp lý đã chứng minh rằng, trong quá trình thực hiện hợp đồng đã xảy ra những vấn đề tranh chấp về việc xác định sự kiện đó là sự kiện pháp lý hay hoàn cảnh thay đổi cơ bản. Sỡ dĩ có những tranh chấp vì thực tế có thể thấy, hoàn cảnh thay đổi cơ bản và sự kiện bất khả kháng có nhiều điểm tương đồng, đặc biệt là yếu tố không thể lường trước và hệ quả miễn trách nhiệm của bên bị ảnh hưởng do không thực hiện đúng nghĩa vụ hợp đồng nhưng xét dưới góc độ khoa học pháp lý, hai chế định này thực tế khác nhau khá rõ về mặt bản chất. Do đó, khi nghiên cứu về vấn đề lý luận cần xem xét dưới nhiều khía cạnh để đưa ra những dấu hiệu nhận diện đảm bảo cho việc áp dụng thống nhất nhất là khi có dấu hiệu về tranh chấp nghĩa vụ pháp lý.

2. Một số hạn chế, vướng mắc của pháp luật về sự kiện bất khả kháng và hoàn cảnh thay đổi cơ bản

Thứ nhất, hạn chế vướng mắc của pháp luật về sự kiện bất khả kháng

Theo quy định tại khoản 2, Điều 351, Bộ luật Dân sự năm 2015 “Trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện đúng nghĩa vụ do sự kiện bất khả kháng thì không phải chịu trách nhiệm dân sự, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác”. Mặt khác, quy định tại Điều 295, Luật Thương mại năm 2005 thì bên được miễn trách nhiệm dân sự trong quan hệ hợp đồng phải có trách nhiệm thông báo cho bên kia và chứng minh cho bên kia về trường hợp miễn trách nhiệm. Từ quy định này có thể thấy khi có một sự kiện pháp lý được xem là sự kiện bất khả kháng và bên bị tác động được miễn trách nhiệm liên quan đến nghĩa vụ của hợp đồng thì phải thông báo và chứng minh cho bên kia. Về vấn đề này cũng tại Điều 295, Luật Thương mại năm 2005 quy định: “Khi trường hợp miễn trách nhiệm chấm dứt, bên vi phạm hợp đồng phải thông báo ngay cho bên kia biết; nếu bên vi phạm không thông báo hoặc thông báo không kịp thời cho bên kia thì phải bồi thường thiệt hại”. Từ điều luật dễ nhận thấy nghĩa vụ thông báo đối với các trường hợp miễn trách nhiệm diễn ra sau khi sự kiện pháp lý đó chấm dứt và phải thông báo ngay mới đủ cơ sở để xác định miễn trừ trách nhiệm. Tuy nhiên, quy định này có những hạn chế nhất định vì điều luật cũng không xác định rõ thời hạn và buộc bên bị tác động chứng minh một sự kiện pháp lý để làm căn cứ miễn trừ? Vậy cách thức chứng minh hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí khách quan của chủ thể không có một khung giới hạn đảm bảo cho việc thực hiện quyền của bên kia.

Tác giả cho rằng, trách nhiệm thông báo và nghĩa vụ chứng minh đối với một sự kiện pháp lý được xem là sự kiện bất khả kháng hết sức quan trọng để làm rõ căn cứ pháp lý của việc áp dụng quy định của pháp luật hoặc thỏa thuận của các bên về việc miễn trách nhiệm đối với bên vi phạm nghĩa vụ. Như vậy, để có thể được miễn trách nhiệm dân sự thì bên bị tác động bởi sự kiện bất khả kháng phải thông báo cho bên kia và nghĩa vụ thông báo và chứng minh là hai yếu tố quan trọng để xác định việc miễn trừ trách nhiệm. Hơn nữa khái niệm tổng quát về sự kiện bất khả kháng mang tính bao trùm nhằm để hạn chế việc bỏ sót các sự kiện pháp lý nhưng dưới góc độ khoa học pháp lý việc khái quát khái niệm lại mang tính trừu tượng dễ phát sinh tranh chấp vì các bên không định lượng được các sự kiện pháp lý cụ thể và là nguyên nhân dẫn đến việc tranh chấp khi một bên thường lạm dụng vào việc có sự kiện pháp lý xảy ra để xác định miễn trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ của hợp đồng. 

Thứ hai, hạn chế vướng mắc của pháp luật về hoàn cảnh thay đổi cơ bản

Căn cứ quy định tại Điều 420, Bộ luật Dân sự năm 2015, một sự kiện pháp lý ảnh hưởng đến hợp đồng được xem là hoàn cảnh thay đổi cơ bản khi đáp ứng ba điều kiện cơ bản là tính khách quan, tính không thể lường trước và yêu cầu về nỗ lực khắc phục tối đa cơ bản. Tuy nhiên khi đánh giá một dấu hiệu để tạo thành một sự kiện có tạo thành hoàn cảnh thay đổi cơ bản hay không còn phụ thuộc vào các yếu tố sau:

Một là, hoàn cảnh đó thay đổi lớn đến mức nào và nếu các bên biết trước đã không thực hiện hợp đồng hoặc thực hiện với nội dung khác. Vướng mắc khi xác định điều kiện này là cơ sở định tính hay định lượng dựa trên mục đích giao kết của các bên. Theo quan điểm của giới khoa học pháp lý mục đích giao kết hợp đồng là một trong những thành tố cơ bản để xác lập hợp đồng tuy vậy trong một số trường hợp việc xác định được mục đích cụ thể của hợp đồng cũng là một vấn đề pháp lý hết sức phức tạp.

Hai là, nếu khi có hoàn cảnh thay đổi nếu một bên tiếp tục thực hiện hợp đồng mà không có sự thay đổi nội dung thì sẽ gây thiệt hại nghiêm trọng cho bên kia. Dưới góc độ khoa học pháp lý thế nào là thiệt hại nghiêm trọng? thiệt hại nghiêm trọng đó được thể hiện như thế nào? Là thay đổi chi phí thực hiện nghĩa vụ của một bên hay giá trị lợi ích của bên còn lại bị giảm so với mục đích ban đầu? Cơ sở định lượng có được xác định cụ thể tại thời điểm hợp đồng được giao kết về  mục đích lợi nhuận hay dựa vào sự “áng chừng” của bên còn lại. Quy định này vô tình loại bỏ những yếu tố khách quan khi cả hai tại thời điểm giao kết đều không thông báo một số cụ thể đạt được. Từ phân tích này có thể thấy minh chứng của nghiên cứu pháp lý hiện đại đang dần thay đổi và không còn thừa nhận một con số cụ thể mà thiên về việc xem xét đến tính chất và hoàn cảnh của mỗi một hợp đồng và đây là một trong những vướng mắc, bất cập khá lớn để có căn cứ xác định lại nghĩa vụ hợp đồng hoặc buộc phải chấm dứt hợp đồng. Vấn đề đặt ra để quy định này phù hợp với thực tế, cần nhận diện và phân định những tiêu chí để đánh giá một cách tổng quan làm cơ sở thực hiện phù hợp với tình hình thực tế.

3. Nhận định và đề xuất

Để hoàn thiện lý luận và có cơ sở đề xuất các giải pháp hoàn thiện về mặt lý luận các quy định của pháp luật về sự kiện bất khả kháng hoặc hoàn cảnh thay đổi cơ bản, tác giả đưa ra trường hợp cụ thể để cùng nhận diện những giải pháp hoàn thiện về mặt lý luận thích nghi với xu thế hiện nay.

Như chúng ta đều biết vào cuối năm 2019 đầu năm 2020, đại dịch Covid-19 bùng nổ trên toàn thế giới kéo theo đó là hàng loạt hoạt động kinh doanh bị ảnh hưởng. Trong trường hợp này, các doanh nghiệp có được miễn trách nhiệm pháp lý hay sửa đổi, chấm dứt các hợp đồng được giao kết hay không?

Về vấn đề này có hai luồng quan điểm đó là Covid-19 là sự kiện bất khả kháng, cũng có quan điểm cho rằng Covid-19 là hoàn cảnh thay đổi cơ bản. Xét một cách tổng quan đối chiếu định nghĩa của Bộ luật Dân sự năm 2015 và quy định của Luật thương mại năm 2005 thì dịch Covid-19 chỉ được xem là sự kiện bất khả kháng nếu đáp ứng được các yếu tố cấu thành lên sự kiện bất khả kháng mà pháp luật quy định như đã trình bày, hoặc được xem là hoàn cảnh thay đổi khi có đủ các điều kiện. Như vậy việc xác định dịch bệnh Covid-19 thuộc sự kiện pháp lý nào thì phải xem xét về mặt ảnh hưởng của chủ thể có quyền và chủ thể thực hiện nghĩa vụ cũng như phải xác định thời điểm xác lập giao dịch. Dựa trên tình huống thực tế có thể thấy khi phân tích một sự kiện pháp lý để xác định nghĩa vụ hợp đồng trong trường hợp bị ảnh hưởng bởi sự kiện bất khả kháng hoặc hoàn cảnh thay đổi cơ bản thì phải xem xét nhiều yếu tố cấu thành. Do đó, để hoàn thiện các quy định của pháp luật về sự kiện bất khả kháng hoặc hoàn cảnh thay đổi cơ bản cần phải nhận diện dưới nhiều góc độ, phù hợp với từng tình huống pháp lý để có những giải pháp cụ thể, đó là:

Một là, nhận dạng sự kiện pháp lý là bất khả kháng hay hoàn cảnh thay đổi cơ bản khi thực hiện hợp đồng

Liên quan đến ví dụ minh họa liên quan đến đại dịch Covid-19 như tác giả đề cập ở trên, bản thân tác giả cho rằng mặc dù có sự tương đồng về các yếu tố cấu thành và thời điểm giao kết hợp đồng để kết luận sự kiện pháp lý đó thuộc trường hợp bất khả kháng hay hoàn cảnh thay đổi cơ bản. Để làm được điều này cần phải xây dựng khái niệm về hoàn cảnh thay đổi cơ bản và xem xét lại các yếu tố cấu thành của từng sự kiện pháp lý thuộc sự kiện bất khả kháng hay hoàn cảnh thay đổi cơ bản để nhận diện phù hợp với từng tình huống mà pháp luật không dự liệu.

Hai là, hành động hay không hành động khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản hay khi có sự kiện bất khả kháng

Như tác giả đã phân tích, hoàn cảnh thay đổi cơ bản là một khái niệm mới xuất hiện trong Bộ luật Dân sự năm 2015 theo đó khi một sự kiện pháp lý được xem là đủ điều kiện cấu thành hoàn cảnh thay đổi cơ bản. Trong trường hợp này, bên bị xâm phạm về mặt lợi ích được quyền yêu cầu đàm phán lại hợp đồng hoặc chấm dứt và các bên vẫn phải thực hiện nghĩa vụ.

Như vậy, khi xảy ra hoàn cảnh thay đổi cơ bản thì bên bị ảnh hưởng buộc phải đảm phán lại hoặc yêu cầu chấm dứt nhưng vẫn thực hiện nghĩa vụ nên chủ thể được quyền hành động hoặc không hành động vì thực tế việc hành động hay không hành động còn phụ thuộc vào ý chí của bên có quyền. Khác với cách thức giải quyết hậu quả khi thực hiện hợp đồng có hoàn cảnh thay đổi cơ bản, khi có sự kiện bất khả kháng bên bị xâm phạm lợi ích buộc phải hành động để được miễn trừ trách nhiệm. Sự khác biệt về hướng giải quyết hậu quả pháp lý cho một sự kiện pháp lý mà chưa xác định rõ là do hoàn cảnh thay đổi cơ bản hay sự kiện bất khả kháng cũng là một vấn đề cần phải xem xét dưới nhiều góc độ. Về điều này, theo quan điểm của tác giả nên sửa đổi quy định về nghĩa vụ thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản theo hướng chấm dứt tại thời điểm thông báo để đảm bảo lẽ công bằng cho các bên.

4. Kết luận

Từ những phân tích ở trên có thể nói rằng sự kiện bất khả kháng hay hoàn cảnh thay đổi cơ bản là một sự kiện pháp lý hết sức quan trọng trong quá trình thực hiện hợp đồng nhằm bảo vệ chủ thể có quyền và chủ thể có nghĩa vụ, đồng thời đảm bảo sự công bằng trong quá trình thực hiện. Tuy nhiên vì các điều kiện, yếu tố cấu thành chưa được nhận diện rõ nét nên các chủ thể khó xác định sự kiện đó thuộc sự kiện pháp lý nào nên đôi khi cách thức hành động lại xâm phạm nghĩa vụ. Với bài viết này, tác giả mong rằng đóng góp một số ý kiến, chỉ ra những bất cập, hạn chế nhằm tháo gỡ những vướng mắc góp phần hoàn thiện các quy định về mặt lý luận của sự kiện bất khả kháng hoặc hoàn cảnh thay đổi cơ bản thích ứng với xu thế phát triển hiện nay.

Tài liệu tham khảo

1. Nguyễn Quốc Bảo (2020), Bình luận khoa học: Sự kiện bất khả kháng và các vấn đề pháp lý đáng lưu tâm, Kiến thức pháp lý;

2. PGS.TS. Trần Việt Dũng (2022), Những vấn đề pháp lý trong soạn thảo điều khoản sự kiện bất khả kháng và điều khoản hoàn cảnh thay đổi cơ bản trong bối cảnh đại dịch COVID-19, Viện nghiên cứu lập pháp thuộc Uỷ ban Thường vụ Quốc hội;

3. Quốc hội (2022), Luật Thương mại số 36/2005/QH11

4. Quốc hội (2015), Bộ Luật dân sự số 91/2015/QH13;

5. Từ điển Black’s Law Dictionary (11th ed. 2019).

6. Công ước Viên 1980 của Liên Hợp Quốc về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế;

7. Bộ nguyên tắc của UNIDROIT về hợp đồng thương mại quốc tế năm 2010 – PICC

Thạc sĩ, Luật sư LÊ THỊ HỒNG THƠM

Giám đốc Công ty Luật TNHH Dương Nữ

Thời hiệu khởi kiện tranh chấp kinh doanh thương mại và những vấn đề pháp lý cần lưu ý

 
Nguyễn Hoàng Lâm