LSVNO - Trong các vị vua trị vì thời Lê sơ (1428 - 1527), thời trị vì của vua Lê Thánh Tông (1460 - 1497) là vị vua đạt được nhiều thành tựu trong việc trị nước 37 năm, để đời sau thường lấy đó làm khuôn vàng thước ngọc khi nói về những bậc minh quân.
Ca ngợi công nghiệp trị nước của vua, sử sách cổ kim hết lời ngợi ca. Nào là: “đời Lê về năm Quang Thuận, Hồng Đức thì trị giáo xương minh”[1]; “Những sự văn trị và võ công ở nước Nam ta không có đời nào thịnh hơn đời Hồng Đức”[2]. Những lời tán dương ấy, chẳng ngoa ngôn chút nào. Về đường kinh tế, thời vị Thiên Nam động chủ của hội Tao Đàn ở ngôi, nước thịnh dân giàu, quốc thái dân an; pháp luật thành văn được chế định làm khuôn mẫu để dân tuân theo; đường khoa cử thịnh đạt nhất trong các thời vua, nhân tài nở rộ;...
Ở đây, riêng về đường luật pháp, dù các đời vua khác đầu thời Lê sơ như Lê Thái Tổ, Lê Thái Tông có soạn thảo ra luật pháp, nhưng chưa mang tính hệ thống. Trên cơ sở kế thừa và căn cứ tình hình thực tiễn, vua Lê Thánh Tông đã cho soạn thảo và ban hành bộ Quốc triều hình luật, còn gọi là Lê triều hình luật, hay luật Hồng Đức, gồm có 722 điều trong 13 chương, ban hành rộng rãi để đất nước có luật lệ rõ ràng, vua tôi theo đó mà quản lý xã hội được thuận tiện.
Cải trang vi hành xét thực hư
Quốc triều Hình luật nghiêm trị tội tham nhũng.
Tìm hiểu về Quốc triều hình luật, ta thấy một trong những nội dung đáng lưu ý, đó là việc quy định xét xử, định mức tội trạng theo từng mức độ khác nhau đối với loại trọng tham ô, hối lộ. Trong tổng số 722 điều, chúng tôi thống kê sơ bộ được có 102 điều luật liên quan đến xử tội tham ô, hối lộ, tức là chiếm khoảng 1/7 tổng số điều luật. Trong đó có tới 10/13 chương có những điều luật xử tội này, như chương Danh lệ có 2 điều, Chương Vệ cấm có 5 điều, Chương Vi chế có tới 35 điều[3]... Trong 102 điều luật, thì chỉ có 4 điều luật liên quan đến xét xử tội hối lộ, còn lại là về tội tham nhũng. Rõ là tham nhũng mang tính chủ động hơn là hối lộ. Điều đó cho thấy vua Lê Thánh Tông rất quan tâm đến việc xử lý tội tham nhũng cũng như thể chế hóa luật lệ từ thực tế xã hội.
Xem trong sử cũ, thời vua Lê Thánh Tông, rất nhiều vụ tham ô, nhũng lạm đã bị đưa ra ánh sáng và nghiêm trị theo pháp luật. Và trong đó, đa phần là quan lại trong triều, ngoài trấn, từ chức thấp cho đến bậc trọng thần. Tỉ như vụ cha con Thái úy Nguyễn Xí và Đô đốc Nguyễn Sư Hồi nhận tiền của người; Binh bộ Thượng thư Nguyễn Vĩnh Tích bị thu thẻ bài, không giao việc cũng bởi tham ô,[4]...
Để hiểu rõ hơn về quan điểm của vị vua sáng nhà Lê, cũng như cách hành xử của ngài đối với hành vi nhũng lạm, không đâu bằng những dẫn chứng xác thực. Và dưới đây là giai thoại được người đời truyền tụng lại về việc đích thân vua Lê Thánh Tông đã xử tội tham ô, biển thủ công quỹ của quan viên. Việc ấy có liên quan tới chuyến vi hành của vị vua sáng, được chép trong sách Dã sử[5] với tiêu đề “Quận công phong lậu”[6]. Tiếng là sách dã sử, nhưng nhiều truyện trong sách này, lại có liên quan tới những nhân vật có thật trong lịch sử nước nhà, cũng như nhiều sự kiện đã được sử sách ghi lại đấy. Câu chuyện ấy, được sách trên thuật lại. Theo đó...
… Thời vua Lê Thánh Tông trị vì, lúc ấy ở đất kinh kỳ Thăng Long có một người đánh gậy giỏi, được người trong thành gọi là Quận Gió dù anh chàng chẳng có chức vị gì về mặt chính quyền cả. Tên gọi “Quận Gió” của anh chàng xuất phát từ thực tế ở tài năng khác người của anh ta khi di chuyển thoắt ẩn, thoắt hiện, ra tay nhanh như chớp, được xem là hạng anh chị khét tiếng. Triều đình biết tới Quận Gió là phường trộm cướp, muốn dùng luật pháp nước nhà để tống giam y cho giảm bớt kẻ sống ngoài vòng pháp luật, nhưng ngặt nỗi muốn thế, thì cần phải có tang chứng, vật chứng phạm tội thì mới thi hành được luật nước.
Quận Gió dù là phường đạo chích, nhưng lại được tiếng nghĩa hiệp, hay giúp đỡ cho hạng thanh niên nghèo khó. Bởi vậy, dù là đạo chích nhưng người này chẳng dư dả gì về của cải, thế nên mới có cái cảnh là trong nhà thường không của dư, vợ con thì mặc áo vải ăn rau chứ không có trang phục sang trọng hay được hưởng cao lương mỹ vị gì, chỉ có thể sống lay lắt qua ngày đoạn tháng như đa phần những bình dân bần hàn khác[7].
Tiếng tăm Quận Gió nổi tới mức đến vua Lê ở trong cung cấm cũng biết đến tên tuổi của y. Để tìm hiểu thực hư lời đồn đại của nhân gian về tay Quận Gió mà thiên hạ hay nhắc tới, vua Lê Thánh Tông quyết định phải thực mục sở thị xem y ra sao. Thế là đúng vào dịp Tết Nguyên đán nọ vào đêm 30 Tết, vua Lê Thánh Tông cải trang thành anh giáo nghèo và đi vi hành đón giao thừa, cũng là để xem thần dân đón Tết có sung túc hay chăng. Biết tiếng Quận Gió, vua sai người tìm nhà của Quận Gió và gia đình y. Khi biết rồi, vua bèn tự mình thay đổi trang phục, ăn vận sơ sài đến nhà hắn. Vốn đã nghe tiếng đây là kẻ trộm tài tử vì nghĩa không vì tiền, vua trong bộ dạng buồn bã, gặp Quận Gió mà trình bày gia cảnh:
- Tôi là học trò nghèo, đi dạy trẻ, cuối năm về quê, nhưng giữa đường gặp bọn côn đồ lột hết sạch. Bây giờ tay không Tết đến, về nhà chẳng biết trông vào đâu. Đây với Tây Giang[8] quê tôi không xa, nhờ ơn ông đem lòng nghĩa hiệp giúp đỡ ít nhiều.
Nghe ông thầy đồ nghèo than thở vậy, Quận Gió lấy làm cảm động lắm, nhìn người khách sa cơ rồi cất lời:
- Tôi nhìn nhà thầy không phải bậc tầm thường. Thiết tưởng không phải bọn ăn bám. Tôi đây đâu có ý bủn xỉn. Nhưng vừa rồi có đến khoảng mươi kẻ cũng gặp cảnh như thầy, nên tôi đã dốc hết túi giúp họ cả rồi, bây giờ biết làm thế nào?
Vị vua trong vai ông giáo nghèo cứ kêu ca kể nghèo kể khổ mãi. Quận Gió thấy thế thêm xót thương, bèn nói:
- Thầy hãy ngồi đây, để tôi tính giùm cho.
Nói xong, hắn gọi người nhà lấy ly rượu hai người cùng nhau uống. Uống được nửa chừng, Quận Gió lại tiếp lời:
- Xin thú thực với thầy, tôi đâu phải kẻ đi ăn trộm. Chẳng qua muốn giúp người nghèo, buộc lòng phải làm chuyện đó thôi. Mà có lấy toàn là của để làm việc nhân nghĩa, giúp người thôi, chứ vàng rơi ngoài đường tôi cũng không thèm nhặt. Thầy có biết chỗ nào có của bất nghĩa mà lấy được không?
Thầy đồ nghèo lỡ đường nghe Quận Gió nói thế, vốn đã tìm hiểu qua một số trường hợp trong kinh thành, bèn gợi ý:
- Nhà nọ có người lái buôn đấy, bỏ cả vốn liếng ra để lấy 1/10, sao ông không tới đó lấy? Lại tiếp một nhà kia nữa, ông coi thử xem có được không?
Quận Gió nghe ông đồ gợi ý, thì lắc đầu mà rằng:
- Không được, nhà ấy cày cấy dành dụm, làm ăn chính đáng nên mới giàu, tôi không lấy đâu.
Ông giáo lại tiếp:
- Trừ nhà ấy ra, tôi chẳng biết chỗ nào khác cả.
Suy nghĩ trầm tư một lúc, Quận Gió quả quyết:
- Được rồi. Tôi có cách.
Bấy giờ, ông giáo lỡ đường mới tò mò hỏi đó là cách gì. Quận Gió đáp:
- Có viên quản Sở Kim Ngô, chủ kho nhà nước đấy. Hắn trộm của nước mà làm giàu. Tôi ăn trộm để giúp ông, có nên không?
Ông giáo lại hỏi:
- Còn nhà buôn kia thì ông tính thế nào?
Quận Gió nói:
- Nhà nọ có tiếng mà không có miếng, còn nhà kia bề ngoài thì rảnh rang, nhưng bên trong trống rỗng, lòng tôi không nỡ.
Rõ ràng là của cải, gia thế từng nhà, Quận Gió nắm rõ như cầm vật trong lòng bàn tay vậy. Nói xong, Quận Gió đứng dậy, rồi nhanh như chớp đã mất hút trong đêm đen 30 Tết. Đến nửa đêm hôm ấy, Quận Gió đã về, hắn gọi ông giáo đang nằm ngủ nuôi hi vọng:
- Dậy, tôi lấy ra năm hốt bạc, gọi là một chút để giúp thầy đó.
Thầy đồ họ Lê tò mò hỏi:
- Ông chỉ lấy có chừng này thôi ư?
Quận Gió cười cười mà rằng:
- Mở túi ra lấy ngần này, đủ giúp thầy thôi, lấy xong khóa lại, chả ai biết cả.
Ông đồ nhận lấy số vàng Quận Gió đưa, cảm tạ rồi lui gót, giả cách xuôi Nam về đất Tây Giang. Nhưng không, suy nghĩ làm sao, vua bèn sai người đem năm hốt bạc kia về giấu ở ngoài thành. Ngày mai, đã sang năm mới.
Phá án mùng Một Tết Nguyên đán
Vua Lê Thánh Tông vi hành.
Giao thừa rồi cũng qua, Mùng Một Tết Nguyên đán rồi cũng đến, năm mới đã sang. Theo lệ, quan viên trong triều đình và quan lại đại diện các đạo vào điện lạy mừng vua, chúc tụng “Vạn tuế”. Bấy giờ, vua Lê Thánh Tông mới nhìn viên quan Sở Kim Ngô rồi hỏi:
- Đêm qua nhà ngươi có mất trộm không?
Lấy làm ngạc nhiên, viên quan Sở Kim Ngô lạy vua rồi trả lời:
- Dạ thưa bệ hạ, không có ạ!
Bừng bừng mặt giận, vua Lê Thánh Tông lại hỏi:
- Túi tiền của nhà ngươi có bao nhiêu, đã bay mất năm hốt bạc rồi đấy.
Nói xong, vua sai Trung sứ ra ngoài thành đào năm hốt bạc mang về. Viên quan Sở Kim Ngô nhìn thấy năm hốt bạc có đề bốn chữ: “Quốc khố chi bảo”, đúng là bạc trong kho của nhà nước mà hắn nhũng lạm thì mặt cắt không còn giọt máu. Vua Lê Thánh Tông theo luật định tội. Lúc này, chính là lúc mà pháp luật nhà nước tỏ rõ hiệu lực răn đe, trấn áp kẻ phạm tội.
Căn cứ theo quy định trong Chương Đạo tặc (Trộm cướp) của Quốc triều hình luật, quan Kim Ngô là kẻ coi kho bạc nhà nước mà lại biển thủ tiền của, làm trách với trách nhiệm được giao, tội của hắn ứng điều 27 của chương này là: “Quan giám lâm, người coi kho mà tự lấy trộm thì phải xử như tội ăn trộm thường và phải bắt bồi thường tang vật gấp hai lần”[9]. Thế nên, hắn bị lột bỏ hết mọi tước vị. Gia sản bị tịch thu, thân bị lưu đày vì tội tham ô quốc khố nhà nước.
Riêng về phần Quận Gió, nếu xét theo tội trộm cướp được quy định trong Quốc triều hình luật, thì tội trạng chẳng nhẹ chút nào, bởi Điều 19 trong Chương Đạo tặc ghi rõ: “Kẻ trộm mới phạm lần đầu thì phải lưu đi châu xa. Kẻ trộm đã có tiếng và kẻ trộm tái phạm thì phải tội chém”[10]. Chiếu theo luật, hẳn Quận Gió sẽ phải đầu rơi, máu chảy nơi pháp trường bởi hắn là “kẻ trộm đã có tiếng” khắp chốn Kẻ Chợ rồi. Nhưng xét ra, đây là trường hợp trộm đặc biệt, và vua Lê Thánh Tông đã có sự linh động chứ không nhất nhật theo luật mà xử cứng nhắc. Bởi vậy mà không những thân chẳng bị gông cùm, đầu chẳng lìa khỏi cổ, sau đó Quận Gió còn được vua Lê Thánh Tông cho vời vào cung, phong làm quận công, cao nhất trong bậc tước “Công, hầu, bá, tử, nam” thời ấy. Lại chính tay vua viết cho tấm bảng vàng có bốn chữ “quân tử đạo chích” (tức là trộm cướp mà quân tử) và ban thưởng rất trọng hậu.
Ở trường hợp của Quận Gió. Tội trộm cắp là có thật, nhưng vì hành vi trộm cắp của y, lại chẳng phải để làm giàu bất chính cho mình, mà để giúp những người cơ nhỡ, nghèo khổ. Của cải y lấy, là lấy từ những kẻ làm giàu bất chính, chứ không lấy từ nhà lương thiện. Lại thêm nữa, qua vụ việc kia, y đã giúp cho nhà nước phát hiện ra kẻ nhũng lạm của công là quốc khố của nước. Công này thật lớn, nên vua Lê Thánh Tông mới theo đó mà ban thưởng cho Quận Gió. Qua việc này, cũng cho ta thấy một thực tế là “Vua là chủ tể trong nước cho nên chủ quyền chỉ ở trong tay vua”[11]. Vua vừa là người hành pháp, mà cũng có quyền tư pháp, là vị quan tòa tối cao, nên vua, cũng chính là luật vậy. Dó đó, trường hợp Quận Gió mới không câu nệ nhất nhật vào Quốc triều hình luật đấy.
Việc trên, thật là một trường hợp ngoại lệ với lẽ thường khi kẻ trộm như Quận Gió không những chẳng bị trọng tội mà còn được đặc cách ban khen. Âu đó cũng là phương pháp kịp thời khuyến khích người ngay thẳng, loại bỏ kẻ gian thần thường thấy của vua Lê Thánh Tông vậy. Thế nên, trong Dã sử, người viết mới nhân việc này mà bàn rằng: “nào biết đâu kẻ mở túi không phải trộm, kẻ lưng đai tay hốt mà là trộm mới lạ thay. Lấy của kẻ giàu vô đạo, giúp cho kẻ nghèo biết lẽ phải chăng, đích là việc làm của người hiệp sĩ, tưởng cũng không hại gì đến ai cả, mà bảo là trộm cướp sao được”[12]. Thật là, trộm cướp cũng có dăm bảy loại, chẳng thể nào mà lường hết được, đâu phải cứ phường đạo chích là giống nhau hết cả.
Dù tính xác thực của giai thoại này chưa được minh định. Nhưng qua đó cũng phản ánh được tinh thần cầu thị của triều đình, sẵn sàng ghi nhận thông tin từ nhân gian để chống tham nhũng và hành động khuyến khích nhân dân tham gia chống tham nhũng để diệt trừ nạn “sâu dân, mọt nước”. Và việc xử án ngay mùng Một Tết Nguyên đán của vua, cũng phần nào cho thấy, không cứ là ngày lễ, ngày tết, việc cần kíp phải làm như trị tội tham nhũng, vua không để chậm trễ, xem đó như là biện pháp mang tính cấp thiết để răn đe những công bộc của dân lúc ấy cũng đang tề tựu đông đủ mà chúc Tết đấng kim thượng. Vậy là một việc làm mà “nhất cử lưỡng tiện” đấy. Qua một vụ xét xử như thế, đã cho thấy sự tinh tường, vì dân, vì nước của vua Lê Thánh Tông như thế nào, xứng đáng là vị vua “sáng lập chế độ mới mẻ, văn học và nhân vật bấy giờ rất khả quan, đất đai và bờ cõi nước nhà ngày càng thêm rộng”[13] mà vua triều Nguyễn là Tự Đức đã ngợi ca.
---*---
[1] Phạm Đình Hổ (1989), Vũ trung tùy bút, Nxb. Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 36 - 37.
[2] Trần Trọng Kim (1971), Việt Nam sử lược, quyển I, Trung tâm Học liệu xuất bản, Sài Gòn, tr. 264.
[3] Xem thống kê này trong Trần Đình Ba (2016), Nhà Lê sơ (1428 - 1527) chống nạn “sâu dân, mọt nước”, Nxb. Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 125.
[4] Trần Đình Ba, Nhà Lê sơ (1428 - 1527) chống nạn “sâu dân, mọt nước”, Sđd, tr. 84.
[5] Theo nghiên cứu hiện nay thì tác giả sách trên có thể là Thái Hà Diên Mậu Hoàng Cao Khải.
[6] Khuyết danh (1968), Dã sử, Trung tâm học liệu, Sài Gòn, tr. 1 - 3.
[7] Khuyết danh, Dã sử, Sđd, tr. 1.
[8] Có tài liệu thì ghi là Thanh Hóa thừa tuyên.
[9] Viện sử học (2009), Cổ luật Việt Nam: Quốc triều hình luật và Hoàng Việt luật lệ, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, tr. 93.
[10] Viện sử học, Cổ luật Việt Nam: Quốc triều hình luật và Hoàng Việt luật lệ, Sđd, tr. 91.
[11] Đào Duy Anh (1951), Việt Nam văn hóa sử cương, Bốn Phương xuất bản, Sài Gòn, tr. 154.
[12] Khuyết danh, Dã sử, Sđd, tr. 3.
[13] Tự Đức, “Ngự chế Việt sử tổng vinh”, tr. 150. Xem Thơ văn Tự Đức do Nxb. Thuận Hóa ấn hành năm 1996.
Ths. Trần Đình Ba