Tổng quan về tội “Gây rối trật tự công cộng”
Căn cứ tại khoản 1 Điều 245 Bộ luật Hình sự (BLHS) 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) quy định: “Người nào gây rối trật tự công cộng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt về hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này,...”.
Căn cứ tại khoản 1 Điều 318 BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định: “Người nào gây rối trật tự công cộng gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này,...”.
Dễ dàng nhận thấy được sự thay đổi trong yêu cầu về hậu quả để cấu thành tội “Gây rối trật tự công cộng”. Theo đó, cấu thành cơ bản được quy định tại khoản 1 Điều 318 BLHS 2015 nặng hơn so với khoản 1 Điều 245 BLHS 1999, bởi lẽ chỉ cần hành vi “gây ảnh hưởng xấu” đã cấu thành tội phạm chứ không nhất thiết phải gây ra hậu quả nghiêm trọng.
Các yếu tố cấu thành tội “Gây rối trật tự công cộng”
Để có thể định tội và áp dụng biện pháp xử lý thích đáng thì cần phải xem xét rõ ràng các dấu hiệu pháp lý và việc phân tích dấu hiệu pháp lý tội “Gây rối trật tự công cộng” dựa trên các mặt cụ thể như sau:
Xét vào chủ thể của tội phạm: Được thực hiện bởi những người từ đủ 16 tuổi trở lên và có năng lực trách nhiệm hình sự.
Xét vào khách thể của tội phạm: Tội phạm xâm phạm vào những nội quy, quy tắc, điều lệ,... về trật tự ở những nơi công cộng; xâm phạm trực tiếp đến trật tự chung, vi phạm nếp sống văn minh, quy tắc của cuộc sống, ảnh hưởng đến những hoạt động bình thường tại nơi công cộng.
Xét vào mặt chủ quan của tội phạm: Người phạm tội thực hiện với lỗi cố ý
Xét vào mặt khách quan của tội phạm:
Tội phạm được thực hiện ở hành vi gây rối trật tự công cộng gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Đây có thể bao gồm các hành vi coi thường trật tự chung bằng lời nói cử chỉ gây mất trật tự hoặc là những hành vi càn quấy hành hung người khác (nhưng chưa gây thương tích) những nơi đông người như ở nhà ga, bến xe, rạp hát, công viên, gây lộn xộn, ảnh hưởng đến trật tự chung. Ví dụ: hò hét, đuổi đánh nhau trên đường phổ hoặc lôi kéo, kích động người khác cùng tham gia,...
Nơi công cộng là những nơi tập trung đông người như công viên, rạp hát, nhà ga, bến xe, trên đường phố,... có nhiều người qua lại nơi công cộng cũng có thể là những nơi trao đổi hàng hóa, nơi vui chơi giải trí của công dân.
Lưu ý
Hành vi gây rối trật tự công cộng kèm theo sự đập phá tài sản hoặc có vũ khí thì tùy từng trường hợp có thể truy cứu trách nhiệm hình sự thêm về tội khác như tội hủy hoại tài sản hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản (Điều 178 BLHS).
Hành vi hành hung chống lại người duy trì trật tự công cộng, người đang thi hành công vụ thì có thể người phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự theo Điều 330 BLHS về tội “Chống người thi hành công vụ”.
Hành vi gây rối trật tự công cộng không gây thiệt hại cho tính mạng, sức khỏe của người khác mà chỉ gây ảnh hưởng đến trật tự chung ở nơi công cộng. Nếu hành vi gây rối trật tự công cộng lại gây thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe của người khác thì tùy từng trường hợp, họ phải chịu trách nhiệm hình sự về các tội phạm tương ứng và tội “Gây rối trật tự công cộng” theo nguyên tắc phạm nhiều tội.
Vướng mắc
Tại tiểu mục 5.1 của Nghị quyết số 02/2003/NQ-HĐTP ngày 17/4/2003 của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao đã hướng dẫn cụ thể về “gây hậu quả nghiêm trọng” trong tội “Gây rối trật tự công cộng” như sau:
5.1. Hành vi gây rối trật tự công cộng mà để hậu quả xảy ra thuộc một trong các trường hợp sau đây bị coi là "gây hậu quả nghiêm trọng" và phải chịu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 245 Bộ luật Hình sự:
a. Cản trở, ách tắc giao thông đến dưới 2 giờ;
b. Cản trở sự hoạt động bình thường của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân;
c. Thiệt hại về tài sản có giá trị từ mười triệu đồng trở lên;
d. Chết người;
đ. Người khác bị thương tích hoặc bị tổn hại sức khoẻ với tỉ lệ thương tật từ 31 % trở lên;
e. Nhiều người bị thương tích hoặc bị tổn hại sức khoẻ với tỉ lệ thương tật của mỗi người dưới 31%, nhưng tổng tỉ lệ thương tật của tất cả những người này từ 41% trở lên;
g. Người khác bị thương tích hoặc bị tổn hại sức khoẻ với tỉ lệ thương tật từ 21% đến 30% và còn thiệt hại về tài sản có giá trị từ năm triệu đồng trở lên;
h. Nhiều người bị thương tích hoặc bị tổn hại sức khoẻ với tỉ lệ thương tật của mỗi người dưới 21%, nhưng tổng tỉ lệ thương tật của tất cả những người này từ 30% đến 40% và còn thiệt hại về tài sản có giá trị từ năm triệu đồng trở lên.
Ngoài các hậu quả xảy ra về tính mạng, sức khoẻ và tài sản được hướng dẫn trên đây, thực tiễn cho thấy có thể còn có hậu quả phi vật chất như có ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, ngoại giao, đến trật tự, an toàn xã hội...
Trong các trường hợp này phải tuỳ vào từng trường hợp cụ thể để đánh giá mức độ của hậu quả do tội phạm gây ra có phải là nghiêm trọng hay không.
Ngày 8/10/2021, TAND Tối cao ra Quyết định số 355/QĐ-TANDTC về việc công bố danh mục văn bản quy phạm pháp luật hết hiệu lực toàn bộ thuộc lĩnh vực của TAND Tối cao. Theo đó, Nghị quyết số 02/2003/NQ-HĐTP ngày 17/4/2003 thuộc danh mục các văn bản quy phạm pháp luật đã hết hiệu lực.
Tuy vậy, hậu quả của việc gây rối trật tự công cộng “gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội” theo quy định của BLHS 2015 đến hiện nay vẫn chưa có văn bản hướng dẫn chi tiết hay quy định cụ thể dù BLHS 2015 đã có hiệu lực từ ngày 01/01/2018. Điều này đã gây không ít khó khăn cho các cơ quan tiến hành tố tụng trong thực tiễn áp dụng pháp luật về tội “Gây rối trật tự công cộng”.
Kiến nghị
Trong khi chờ ban hành các văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật, các cơ quan tiến hành tố tụng vẫn nên áp dụng các trường hợp “Gây hậu quả nghiêm trọng” theo hướng dẫn tại tiểu mục 5.1 của Nghị quyết số 02/2003/NQ-HĐTP để xử lý đối với những hành vi gây rối trật tự công cộng bảo đảm theo nguyên tắc có lợi cho người phạm tội. Tuy nhiên, để đảm bảo tính nghiêm minh, thống nhất của pháp luật, đề nghị các cơ quan có thẩm quyền sớm ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể về hành vi gây rối trật tự công cộng “Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội” để giúp cho các cơ quan tiến hành tố tụng khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không bỏ lọt tội phạm và làm oan người vô tội.
Tài liệu tham khảo
Bộ luật Hình sự 1999 sửa đổi, bổ sung 2009;
Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017;
Bộ luật Tố tụng hình sự 2015;
Nghị quyết số 02/2003/NQ-HĐTP ngày 17/4/2003 của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao đã hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật Hình sự;
Quyết định số 355/QĐ-TANDTC về việc công bố danh mục văn bản quy phạm pháp luật hết hiệu lực toàn bộ thuộc lĩnh vực của TANDTC;
TS. Trần Văn Biên, TS Đinh Thế Hưng, Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự năm 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017), NXB Thế giới.