/ Nghiên cứu - Trao đổi
/ Căn cứ xác định giới hạn xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự

Căn cứ xác định giới hạn xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự

01/09/2024 06:12 |

(LSVN) - Giới hạn của việc xét xử sơ thẩm là chế định pháp lý quan trọng trong Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam có liên quan đến nhiều chế định khác. Vì vậy, việc quy định giới hạn của việc xét xử sơ thẩm phải dựa vào những căn cứ có tính khoa học được đúc kết từ lý luận và thực tiễn. Những căn cứ này giúp nhà làm luật cân nhắc mọi khả năng, dự liệu các tình huống để quy định giới hạn của việc xét xử sơ thẩm cho mỗi cấp tòa án. Hiện nay, vấn đề này còn nhiều ý kiến trái chiều, bài viết phân tích một số căn cứ làm cơ sở để nghiên cứu, tham khảo khi đề cập đến quy định giới hạn xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam.

Ảnh minh hoạ.

Giới hạn xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự được hiểu là phạm vi những người, những hành vi mà tòa án cấp sơ thẩm được quyền xem xét và ra các quyết định trên cơ sở nội dung truy tố của viện kiểm sát để giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Giới hạn xét xử sơ thẩm (GHXXST) là một chế định pháp lý quan trọngcó liên quan đến nhiều chế định khác trong tố tụng hình sự như các nguyên tắc cơ bản, phạm vi xét xử phúc thẩm, chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan tiến hành tố tụng... Chế định này có ý nghĩa quy định phương hướng, nội dung xét xử và cả phạm vi những quyết định mà tòa án sẽ tuyên. Nội dung quy định GHXXST phù hợp, có căn cứkhoa học sẽ là cơ sở quan trọng bảo đảm cho chủ thể tiến hành tố tụng thực hiện đúng, đầy đủ chức năng nhiệm vụ, quyền hạn của mình trong quá trình đi tìm sự thật khách quan của vụ án. Việc xác định đúng các căn cứ để quy định GHXXST có ý nghĩa khoa học về mặt lý luận, pháp lý cũng như thực tiễn xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự.

 Căn cứ từ các nguyên tắc cơ bản trong tố tụng hình sự

Giới hạn của việc xét xử sơ thẩm được quy định trên nền tảng các chế định pháp lý quan trọng có liên quan chặt chẽ với nhau trong Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS). Nội dung GHXXST xuất phát từ nhiều quy phạm pháp luật tố tụng hình sự, trong đó có những quy phạm về các nguyên tắc của tố tụng hình sự. Các nguyên tắc này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau tạo thành hệ thống quan điểm, tư tưởng nền tảng làm cơ sở, căn cứ để xây dựng các quy định của BLTTHS và định hướng, chỉ đạo việc áp BLTTHS trong thực tiễn. Chính vì vậy, quy định giới hạn của việc xét xử sơ thẩm cũng phải dựa trên nền tảng của hệ thống các nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự. Trong số các nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự thì nguyên tắc thẩm phán, hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội; suy đoán vô tội và nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm có vai trò rất quan trọng trong việc xác định nội dung giới hạn của việc xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự.

Nguyên tắc thẩm phán, hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật

“Xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” là một nguyên tắc rất quan trọng trong hoạt động tư pháp nói chung và trong hoạt động xét xử của tòa án nói riêng. Nguyên tắc này được ghi nhận ngay từ Hiến pháp năm 1946 và tiếp tục được quy định trong các Hiến pháp sau này của Nhà nước ta. Nội dung nguyên tắc ghi nhận sự độc lập của tòa án khi xét xử, bảo đảm cho tòa án xét xử vụ án được chính xác, không cơ quan, tổ chức và cá nhân nào được can thiệp vào hoạt động xét xử của tòa án một cách trái pháp luật. Tuy nhiên, điều đó không đồng nghĩa với việc thừa nhận các cơ quan tư pháp, hoạt động tư pháp nói chungvà hoạt động xét xử nói riêng là hoàn toàn độc lập, tách rời với các hoạt động khác của bộ máy nhà nước nói chung, cho nên cần phải hiểu tính độc lập ở đây một cách biện chứng.

Việc ghi nhận tòa án xét xử độc lập là độc lập về phương diện nhận thức và áp dụng pháp luật, độc lập khi tiến hành các hoạt động mà pháp luật quy định và các hoạt động nghiệp vụ để xét xử, không ai có quyền can thiệp vào việc xét xử của tòa án. Ngoài ra, nguyên tắc độc lập xét xử còn thể hiện ở tính độc lập của hội thẩm trong quan hệ với thẩm phán và khẳng định tính độc lập giữa các thành viên trong hội đồng xét xử với nhau; trong quan hệ giữa tòa án các cấp, thẩm phán và hội thẩm độc lập không chịu sự chỉ đạo của tòa án cấp trên; trong mối quan hệ giữa các cơ quan tư pháp với nhau, nhất là giữa tòa án với viện kiểm sát, nguyên tắc cũng thể hiện: tòa án xét xử sơ thẩm dựa trên bản cáo trạng của viện kiểm sát nhưng đó không phải là căn cứ duy nhất để tòa án đánh giá về vụ án mà tòa án phải xem xét toàn diện, công khai tất cả chứng cứ tại phiên tòa. Nội dung của nguyên tắc này có ý nghĩa nhằm bảo đảm tính khách quan trong hoạt động xét xử, bảo đảm việc ban hành những bản án và quyết định của tòa án có căn cứ, thông qua đó bảo vệ trật tự pháp luật XHCN.

Trong các quy định về trình tự, thủ tục xét xử, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của tòa án có chế định giới hạn của việc xét xử. Chế định này đề cập những vấn đề như: tòa án được xét xử những bị cáo nào, những hành vi nào của bị cáo đã bị viện kiểm sát truy tố; tòa án có bị ràng buộc bởi tội danh mà viện kiểm sát truy tố hay không; khi viện kiểm sát rút một phần hoặc toàn bộ quyết định truy tố trước khi mở phiên tòa hoặc tại phiên tòa thì quyền hạn xét xử của tòa án như thế nào. Những nội dung nêu trên có mối quan hệ mật thiết với nguyên tắc thẩm phán, hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Nếu quy định giới hạncủa việc xét xử phù hợp với nguyên tắc này thì tạo điều kiện thuận lợi cho tòa án xét xử vụ án được chính xác, ngược lại quy định không phù hợp sẽ hạn chế quyền hạn của tòa án và làm mất đi tính độc lập của tòa án trong xét xử. Qua đó cho thấy, căn cứ vào nội dung nguyên tắc thẩm phán, hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật để quy định nội dung giới hạn của việc xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là có cơ sở và phù hợp.

Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội

Hiến pháp năm 2013, Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) và Luật tổ chức Tòa án nhân dân nước ta đã ghi nhận nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội là nhằm đề cao quyền con người, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân trong tố tụng hình sự là xuất phát từ quan điểm mở rộng tính dân chủ trong hoạt động tư pháp trong thời kỳ xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN. Theo điểm đ khoản 1 Điều 4 BLTTHS, người bị buộc tội gồm người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Điều 16 BLTTHS quy định: “Người bị buộc tội có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa. Cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm thông báo, giải thích và bảo đảm cho người bị buộc tội, bị hại, đương sự thực hiện đầy đủ quyền bào chữa, quyền và lợi ích hợp pháp của họ theo quy định của Bộ luật này”. Như vậy, thực hiện nguyên tắc này bị can, bị cáo và người bào chữa của họ có quyền đưa ra các chứng cứ và những yêu cầu để chứng minh cho sự vô tội hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo. Còn nghĩa vụ chứng minh tội phạm luôn thuộc về cơ quan tiến hành tố tụng. Quá trình chứng minh này là quá trình tìm ra chân lý của vụ án để trên cơ sở đó xử lý người phạm tội. Nhưng chân lý của vụ án chỉ có thể được xác định khi trong quá trình chứng minh có xem xét, đánh giá đầy đủ mọi tình tiết, mọi ý kiến khác nhau, bao gồm cả quanđiểm buộc tội và ý kiến bào chữa. Nếu tòa án chỉ coi trọng chứng cứ, tình tiết buộc tội mà xem nhẹ tình tiết, chứng cứ gỡ tội (bào chữa) sẽ dẫn đến việc giải quyết vụ án phiến diện, không khách quan. Điều đó sẽ ảnh hưởng đến quyền con người của người bị buộc tội, vụ án không được giải quyết chính xác, oan sai vẫn tồn tại.

Theo quy định về giới hạn của việc xét xử trong BLTTHS thì tòa án xét xử những bị cáo và những hành vi theo tội danh mà viện kiểm sát truy tố và tòa án đã quyết định đưa vụ án ra xét xử. Trong quá trình giải quyết vụ án, nếu tòa án xét xử người chưa bị truy tố hoặc xét xử hành vi của bị cáo theo tội danh chưa bị truy tố thì tòa án đã vi phạm nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, tước đi quyền bào chữa của bị cáo, không cho họ có sự chuẩn bị ý kiến bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa. Trong trường hợp này, tòa án xét xử không có sự tranh luận giữa bên buộc tội và bên bào chữa, nên không thể có cơ sở để xác định đúng sự thật khách quan của vụ án. Tuy nhiên, để mục đích chung của tố tụng hình sự đạt được trong từng vụ án cụ thể và để viện kiểm sát, tòa án thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ của mình, các nhà làm luật cần cân nhắc quy định mối quan hệ chế ước của viện kiểm sát và tòa án sao cho bảo đảm hài hòa giữa các chức năng cơ bản của tố tụng hình sự thông qua việc thực hiện quyền của các chủ thể tố tụng (quyền công tố, quyền bào chữa và quyền xét xử).

Tòa án có quyền xét xử bị cáo theo khoản khác với khoản mà viện kiểm sát đã truy tố trong cùng một điều luật, về một tội khác bằng hoặc nhẹ hơn tội mà viện kiểm sát đã truy tố. Quy định này trong nội dung giới hạn của việc xét xử sơ thẩm vụ án hình sự hoàn toàn phù hợp với nguyên tắc nhân đạo XHCN trong pháp luật tố tụng hình sự nước ta, không vi phạmnguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội. Nhưng việc tòa án có quyền xét xử bị cáo theo tội danh nặng hơn tội danh mà viện kiểm sát đã truy tố trong bản cáo trạng thì cần phải cân nhắc kỹ lưỡng, bảo đảm không vi phạm nguyên tắc Hiến định - bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, đồng thời bảo đảm ý nghĩa đích thực của vấn đề “giới hạn của việc xét xử” trong tố tụng hình sự.

Nguyên tắc suy đoán vô tội

Nguyên tắc này có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong khoa học TTHS và trong thực tiễn đấu tranh chống tội phạm. Một nhà khoa học người Nga trong bài viết của mình đã từng nói: “Đối với khoa học xét xử và đối với toàn bộ thực tiễn đấu tranh chống tội phạm của tòa án, không có kim chỉ nam nào tin cậy hơn ngoài việc thừa nhận không điều kiện và hiểu một cách đúng đắn nguyên tắc suy đoán vô tội - một nguyên tắc quan trọng, nền tảng của hoạt động TTHS…”(1). Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật Tố tụng hình sự quy định và có bản án kết tội của tòa án đã có hiệu lực pháp luật.

Nguyên tắc này khẳng định chỉ có tòa án là cơ quan có quyền xét xử các vụ án hình sự, quyền phán quyết đối với công dân là người có tội hay không có tội. Điều này là một bảo đảm pháp lý vững chắc cho mọi người dân - nếu không bị đưa ra xét xử tại tòa án với các thủ tục tố tụng do pháp luật quy định thì không một ai bị coi là có tội và chịu hình phạt. Kể cả, trong trường hợp tòa án đã ra bản án kết tội một người nhưng trong thời gian bản án đó chưa có hiệu lực pháp lực thì người bị kết án đó vẫn chưa bị coi là có tội và họ chưa phải chịu hình phạt theo phán quyết của tòa án. Vì thế, trong quá trình xác định sự thật của vụ án, mọi người mà trước hết là cơ quan (người) tiến hành tố tụng không được định kiến trướccho rằng người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người có tội. Khái niệm “người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo” không đồng nghĩa với khái niệm “người có tội”, tuy nhiên, luật không buộc cơ quan (người) tiến hành tố tụng không được có niềm tin nội tâm về lỗi của bị can, bị cáo. Suy đoán vô tội có nghĩa là lỗi của bị can, bị cáo phải được chứng minh một cách thuyết phục trước tòa án. Tuy nhiên, cần phải nhận thức đúng đắn việc quy định nội dung này tại Điều 13 BLTTHS hoàn toàn không làm giảm giá trị các quyết định trước khi có bản án của tòa án (như quyết định khởi tố bị can, quyết định truy tố của viện kiểm sát...) vì chúng là tiền đề quan trọng cho công tác xét xử của tòa án.

Nguyên tắc suy đoán vô tội đòi hỏi khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục do BLTTHS quy định thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận người bị buộc tội không có tội. Nghĩa vụ chứng minh lỗi là trách nhiệm của bên buộc tội, người bị buộc tội không có nghĩa vụ phải chứng minh sự vô tội của mình. Bản cáo trạng của viện kiểm sát và bản án kết tội của tòa án cần phải dựa trên các chứng cứ khẳng định lỗi của người bị buộc tội trong việc thực hiện tội phạm. Về nguyên tắc, không chứng minh được lỗi của người bị buộc tội đồng nghĩa với sự vô tội của họ đã được chứng minh. Mọi sự hoài nghi về lỗi của người bị buộc tội trong vụ án nếu như không thể loại trừ được theo trình tự do luật định, cũng như mọi sự hoài nghi xuất hiện trong việc giải thích và áp dụng các quy phạm pháp luật hình sự và tố tụng hình sự đều được giải quyết theo hướng có lợi cho họ. Tuy nhiên, trong thực tiễn không phải lúc nào yêu cầu này cũng được tuân thủ. Nội dung giới hạn của việc xét xử sơ thẩm xác định phạm vi, mức độ, quyền của các chủ thể tố tụng để đi tìm chân lýcủa vụ án, đặc biệt là xác định mối quan hệ chế ước giữa viện kiểm sát và tòa án trong việc thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ tố tụng, tránh tình trạng lạm quyền, tùy tiện, chồng chéo. Có thể nói, nguyên tắc suy đoán vô tội là nền tảng, là sự thể hiện cô đọng nhất những bảo đảm pháp lý cho quyền bào chữa của người bị buộc tội, có mối quan hệ chặt chẽ với nội dung quy định giới hạn của việc xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự.

Nguyên tắc tranh trụng trong xét xử được bảo đảm

Nguyên tắc này thể hiện nội dung rất quan trọng trong cải cách tư pháp ở nước ta về việc mở rộng dân chủ, bảo đảm công bằng, khách quan trong tư pháp hình sự. Tranh tụng với tư cách là nguyên tắc được hiểu là cách thức tổ chức phiên tòa sơ thẩm, trong đó có sự tham gia của các bên buộc tội và bào chữa có quyền ngang nhau để bảo vệ các ý kiến, luận điểm của mình và bác bỏ ý kiến, luận điểm của phía bên đối trọng dưới vai trò điều khiển và quyết định của tòa án. Tố tụng hình sự không thể thừa nhận là dân chủ khi chức năng buộc tội không có đối trọng của nó là chức năng bào chữa. Bản thân hoạt động tố tụng hình sự - quá trình nhận thức chân lý khách quan trong từng vụ án cụ thể đòi hỏi sự tranh tụng giữa hai chức năng buộc tội và chức năng bào chữa như là tiền đề cần thiết cho chức năng xét xử. Một triết gia của Hy Lạp cổ đại đã từng nói: chân lý chỉ được làm sáng tỏ qua cọ sát các ý kiến khác nhau. Tranh tụng chính là quá trình tranh luận, trao đổi giữa các bên buộc tội và bào chữa, trong tranh tụng quan điểm khác nhau của các bên sẽ được cọ sát và dưới sự điều khiển, phán xét của tòa án chân lý khách quan của vụ án xuất hiện. Tác giả Phạm Hồng Hải rất có lý khi cho rằng: tranh tụng là một nguyên tắc của tố tụng hình sự, nó khẳng định ở đâu có buộc tội thì ở đó có gỡ tội (bào chữa). Tranh tụngđược thể hiện trong tất cả các giai đoạn của tố tụng hình sự từ khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử ở các cấp tòa án. “Tranh tụng là một phương pháp để tìm ra sự thật khách quan của vụ án. Có thể coi đây là một trong những phương pháp khoa học tốt nhất giúp các chủ thể của hoạt động tố tụng hình sự làm sáng tỏ các vấn đề khác nhau của vụ án hình sự”(2).

Nội dung nguyên tắc được quy định tại Điều 26 BLTTHS và được hiểu như sau: trong quá trình từ khởi tố đến xét xử, bên buộc tội, bên bị buộc tội và những người tham gia tố tụng khác đều bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, đánh giá chứng cứ, đưa ra yêu cầu để làm rõ sự thật khách quan của vụ án. Trong quá trình tranh tụng dân chủ và bình đẳng của các bên tại phiên tòa phải bảo đảm sự độc lập với nhau và phân định rõ ràng các chức năng buộc tội, bào chữa và phán xét (xét xử) vụ án hình sự theo giới hạn nhất định. Tức là phải có sự tách bạch giữa các chức năng buộc tội, bào chữa và xét xử. Tranh tụng đòi hỏi các chức năng cơ bản khác nhau phải do các chủ thể khác nhau thực hiện. Việc xét xử vụ án hình sự của tòa án được tiến hành trên cơ sở tranh tụng dân chủ và bình đẳng giữa các bên tại phiên tòa; tòa án là cơ quan tài phán bảo đảm cho các bên những điều kiện cần thiết để thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng, sự dân chủ và bình đẳng với nhau khi tranh tụng tại phiên tòa. Có quan điểm cho rằng, khi tính tích cực của các bên tăng lên thì vai trò của tòa án và chức năng xét xử bị giảm đi. Chúng tôi không đồng quan điểm này, bởi lẽ, khi tòa án giảm can thiệp không đúng chức năng của mình vào trong quá trình tranh tụng của các bên và chỉ thực hiện những gì thuộc chức năng của mình thì vai trò, uy tín của tòa án càng được đề cao, đồng thời tạo điều kiện để tòa án xem xét, đánh giá các tình tiết, sự kiện của vụ án được toàn diện và khách quan hơn.

Có thể khẳng định ở giai đoạn xét xử, đặc biệt là tại phiên tòa xét xử sơ thẩm, tính tranh tụng giữa các bên tham gia được thể hiện rõ nét và đầy đủ nhất. Tòa án với quyền hạn và trách nhiệm của mình sẽ bảo đảm những điều kiện cần thiết để các bên tham gia hoạt động tranh tụng thực sự dân chủ và bình đẳng. Trên cơ sở kết quả tranh tụng dân chủ và bình đẳng đó tại phiên tòa, Tòa án là người “cầm cân nảy mực” xem xét các tình tiết, chứng cứ và tính pháp lý của chúng với thái độ vô tư, công minh và cuối cùng phán quyết mang tính quyền lực nhà nước.

Sự phân định chức năng, nhiệm vụ của viện kiểm sát và tòa án trong tố tụng hình sự

Có thể nói nội dung GHXXST thể hiện rõ nét nhất mối quan hệ tố tụng giữa viện kiểm sát và tòa án, là “nơi hội tụ” thực hiện các chức năng cơ bản: buộc tội, gỡ tội và xét xử, cho nên chức năng, nhiệm vụ của viện kiểm sát và tòa án trong tố tụng hình sự là một trong những căn cứ để quy định giới hạn của việc xét xử sơ thẩm.

Trong tố tụng hình sự, viện kiểm sát có chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp nhằm bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất, còn tòa án có chức năng xét xử. Nhiệm vụ của tòa án và viện kiểm sát vừa có điểm giống nhau vừa có điểm khác nhau. Ngoài nhiệm vụ chung là bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân thì tòa án còn có nhiệm vụ bảo vệ công lý; viện kiểm sát có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Để thực hiện được mục đích chung ấy, mỗi cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện một chức năng riêng. Sau khi nhận được bản kết luận điềutra và đề nghị truy tố của cơ quan điều tra, viện kiểm sát xem xét và quyết định việc truy tố bị can. Tại phiên tòa, viện kiểm sát giữ quyền công tố, thực hiện việc buộc tội, đề nghị kết tội bị cáo theo nội dung của quyết định truy tố hoặc có thể rút toàn bộ quyết định truy tố và đề nghị hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo không có tội. Quyền quyết định về tội phạm và hình phạt của bị cáo thuộc về tòa án theo đúng nguyên tắc “suy đoán vô tội” được quy định tại Điều 13 BLTTHS.

Quyết định truy tố của viện kiểm sát không chỉ là cơ sở cho việc xét xử của tòa án mà còn là cơ sở để viện kiểm sát thực hiện chức năng buộc tội tại phiên tòa. Thực hiện chức năng của mình, tòa án có quyền nhân danh Nhà nước thực hiện chức năng xét xử tội danh và bị can mà viện kiểm sát đã truy tố. Tòa án xét xử các bị cáo và hành vi phạm tội trong phạm vi quyết định truy tố của viện kiểm sát. Đây là sự chế ước cần thiết trong tố tụng hình sự để tránh việc lạm quyền và bảo đảm cho tố tụng đạt hiệu quả. Vấn đề đặt ra là mối quan hệ chế ước này cần phải xác định như thế nào cho phù hợp, tránh chồng chéo chức năng, nhiệm vụ? Quyền quyết định truy tố thuộc chức năng của viện kiểm sát, nhưng tòa án có buộc phải xét xử như nội dung quyết định truy tố hay không là vấn đề cần cân nhắc. Nếu không đồng ý với quyết định truy tố của viện kiểm sát thì quyền xét xử của tòa án được thực hiện đến giới hạn nào - đây chính là vấn đề GHXXST của tòa án. Việc xác định nội dung vấn đề này phải dựa vào chức năng, nhiệm vụ của tòa án và viện kiểm sát sao cho các cơ quan này thực hiện đúng các chức năng mà Hiến pháp và pháp luật tố tụng hình sự quy định, tránh tình trạng “làm giúp, làm thay” trong tố tụng hình sự. Nếu xác định không rõ giới hạn này thì tòa án có thể xét xử cả những bị cáo và những hành vi của bị cáo chưa bị viện kiểm sát truy tố, và viện kiểm sát có thể địnhtội danh trong quyết định truy tố ràng buộc tòa án không được xét xử theo tội danh khác, như thế là tòa án đã thực hiện cả chức năng buộc tội còn viện kiểm sát đã thực hiện một phần chức năng xét xử của tòa án. Điều này không đúng với chức năng, nhiệm vụ của viện kiểm sát và tòa án đã được ghi nhận trong Hiến pháp và các văn bản pháp luật tố tụng hình sự. Để tránh xảy ra hiện tượng này thì việc quy định GHXXST phải căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ của viện kiểm sát và tòa án trong tố tụng hình sự.

Mối quan hệ giữa quy định giới hạn xét xử sơ thẩm với phạm vi xétxử phúc thẩm vụ án hình sự

Ở nước ta, tòa án thực hiện nguyên tắc chế độ hai cấp xét xử: xét xử sơ thẩm và xét xử phúc thẩm được quy định tại Điều 27 BLTTHS. Điều này phù hợp với pháp luật quốc tế: “Bất kỳ người nào bị kết án về một tội phạm đều có quyền yêu cầu tòa án cấp cao hơn xem xét lại bản án và hình phạt đối với mình theo quy định của pháp luật”(3).

Khi có kháng cáo, kháng nghị, tòa án cấp phúc thẩm có nhiệm vụ xem xét lại vụ án nhằm phát hiện và khắc phục kịp thời những sai lầm, thiếu sót có thể có trong bản án, quyết định sơ thẩm để ra những phán quyết phù hợp, bảo vệ quyềncông dân, giảm bớt oan sai trong tố tụng hình sự. Tuy nhiên, phạm vi kháng cáo của những người có quyền kháng cáo được quy định khác nhau, phụ thuộc vào vai trò, tư cách tố tụng và sự liên quan của bản án, quyết định sơ thẩm đối với quyền và lợi ích của họ. Quyền kháng nghị thuộc về viện kiểm sát cùng cấp và viện kiểm sát cấp trên trực tiếp. Khác với kháng cáo (những người có quyền kháng cáo chỉ cần không đồng ý với bản án hoặc quyết định sơ thẩm là đã có quyền kháng cáo), viện kiểm sát chỉ kháng nghị bản án hoặc quyết định sơ thẩm nếu phát hiện thấy bản án, quyết định đó có sai lầm trong việc đánh giá chứng cứ hoặc áp dụng pháp luật. Nghĩa là sau khi vụ án được xét xử sơ thẩm, tòa án cấp sơ thẩm quyết định vấn đề cần giải quyết bằng một bản án hoặc quyết định sẽ làm phát sinh quyền kháng cáo của bị cáo hoặc những người tham gia tố tụng khác và quyền kháng nghị của viện kiểm sát yêu cầu xem xét lại một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định theo thủ tục phúc thẩm. Theo quy định của BLTTHS hiện hành, “xét xử phúc thẩm là việc tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án hoặc xét lại quyết định sơ thẩm mà bản án, quyết định sơ thẩm đối với vụán đó chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị...”. Khái niệm này thể hiện đầy đủ bản chất của xét xử phúc thẩm với ý nghĩa là cấp xét xử thứ hai; căn cứ làm phát sinh thủ tục xét xử phúc thẩm là kháng cáo, kháng nghị của cơ quan có thẩm quyền (viện kiểm sát); đối tượng xét xử phúc thẩm là bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật.

Phạm vi xét xử phúc thẩm được xác định: “Tòa án cấp phúc thẩm xem xét phần nội dung của bản án, quyết định bị kháng cáo, kháng nghị. Nếu xét thấy cần thiết, có thể xem xét các phần khác của bản án, quyết định không bị kháng cáo, kháng nghị”(4).

Như vậy, phạm vi xét xử phúc thẩm có mối quan hệ chặt chẽ với GHXXST vụ án. Ở cấp xét xử sơ thẩm, tòa án bị giới hạn bởi nội dung quyết định truy tố của viện kiểm sát về bị cáo và hành vi, không được vượt quá khuôn khổ luật định; khác với GHXXST, phạm vi xét xử phúc thẩm không phải bao giờ cũng đầy đủ, toàn diện những vấn đề được xác định trong GHXXST, mà có thể bằng hoặc hẹp hơn. Phạm vi xét xử phúc thẩm được xác định trên cơ sở kháng cáo hoặc kháng nghị và trong một số trường hợp do luật định, cụ thể: trong phạm vi “cứng” là xét xử lại những vấn đề mà tòa án cấp sơ thẩm đã quyết định chưa có hiệu pháp luật nhưng có kháng cáo, kháng nghị và phạm vi “mềm” là những vấn đề khác mà tòa án cấp sơ thẩm đã quyết định chưa có hiệu pháp luật không có khángcáo, kháng nghị mà tòa án cấp phúc thẩm xét thấy cần thiết phải xem xét lại. Về phạm vi xét xử phúc thẩm có nhiều công trình nghiên cứu trong và ngoài nước đề cập. Nhiều quan điểm thống nhất rằng: thẩm quyền của tòa án cấp phúc thẩm phát sinh bởi kháng cáo, kháng nghị nên tòa án cấp phúc thẩm chỉ xét xử lại vụ án hoặc xét lại quyết định sơ thẩm trong GHXXST. Điều này có nghĩa tòa án cấp phúc thẩm không thể xét xử những nội dung không thuộc GHXX của tòa án cấp sơ thẩm đã quyết định bằng bản án, quyết định. Cơ sở để tòa án cấp phúc thẩm xét xử là phần nội dung kháng cáo hoặc kháng nghị của viện kiểm sát có thẩm quyền đối với bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật. Việc tòa án cấp phúc thẩm thấy cần thiết xem xét cả phần nội dung không bị kháng cáo, kháng nghị là trường hợp ngoại lệ theo hướng có lợi cho bị cáo hoặc phần đó có liên quan chặt chẽ đến phần khác hoặc toàn bộ bản án mà nếu không xem xét sẽ dẫn đến việc ra một bản án phiến diện, không công bằng.

Việc tòa án cấp phúc thẩm chỉ được xét xử lại vụ án hoặc xét lại quyết định sơ thẩm trong GHXXST là phù hợp với nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử. Theo đó kháng cáo, kháng nghị nhằm chống lại phán quyết của tòa án cấp sơ thẩm chứ không phải đưa ra yêu cầu mới; tòa án cấp phúc thẩm xét xử lại vụ án chứ không phải xét xử vụ án mới; tòa án cấp phúc thẩm xét lại quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật chứ không phảira quyết định lần đầu. Việc tòa án cấp phúc thẩm vượt qua GHXXST đồng nghĩa với việc vi phạm nguyên tắc hai cấp xét xử. Giới hạn của quyền kháng cáo, kháng nghị chịu sự chi phối của nguyên tắc chỉ được kháng cáo, kháng nghị trong GHXXST. Chủ thể kháng cáo, kháng nghị không được đưa ra yêu cầu mới vượt quá GHXXST. Nếu tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận yêu cầu mới thì vô hình trung sẽ làm mất một cấp xét xử và cấp xét xử bị tước mất chính là cấp sơ thẩm, bởi lẽ bản án, quyết định của tòa án cấp phúc thẩm về yêu cầu mới là bản án, quyết định chung thẩm. Từ phân tích nêu trên cho thấy, phạm vi xét xử phúc thẩm có mối liên hệ chặt chẽ với GHXXST, do đó nội dung của xét xử phúc thẩm là một trong những căn cứ để xây dựng chế định giới hạn của việc xét xử trong BLTTHS cho phù hợp, bảo đảm đồng bộ và thống nhất.

Giới hạn xét xử sơ thẩm là một chế định quan trọng, phức tạp về mặt lý luận, pháp lý cũng như thực tiễn trong tố tụng hình sự. Việc nghiên cứu các căn cứ xác định nội dung GHXXST đúng đắn sẽ góp phần hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự hướng đến nền tư pháp dân chủ, hiện đại, tôn trọng và bảo đảm quyền con người…, đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. 

 (1) Nguyễn Thái Phúc, Nguyên tắc suy đoán vô tội, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 11/2006.

(2) Phạm Hồng Hải, Tiến tới xây dựng tố tụng hình sự ở Việt Nam theo kiểu tranh tụng, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 07/2003, tr. 45. 

(3) Liên hợp quốc, Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị, 1966.

(4) Điều 345 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2021).

Thạc TRẦN THỊ ÁNH

Trường Đại học Kiên Giang

 

Nguyễn Mỹ Linh