/ Nghiên cứu - Trao đổi
/ Một số vướng mắc, bất cập về áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn theo quy định của BLTTHS 2015

Một số vướng mắc, bất cập về áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn theo quy định của BLTTHS 2015

23/11/2023 06:48 |

(LSVN) - Các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự được quy định tại Chương VII Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) 2015. Tuy nhiên thực tiễn áp dụng các biện pháp này trong quá trình tố tụng còn có một số bất cập, vướng mắc.

Ảnh minh họa.

Thứ nhất, về biện pháp ngăn chặn “Tạm giam” theo quy định tại Điều 119

Hiện nay thủ tục tạm giam bị can, bị cáo tại giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm được thực hiện theo quy định của BLTTHS đồng thời vận dụng theo tinh thần tại hướng dẫn của Nghị quyết số 04/2004/NQ-HĐTP ngày 05/11/2004 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao. Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng còn một số vấn đề sau.

Về vụ án cụ thể: Bị can Nguyễn Văn A. bị Viện Kiểm sát quân sự khu vực X Quân khu Y truy tố về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự (BLHS), vụ án được Tòa án thụ lý ngày 28/3/2022, theo hồ sơ thể hiện bị can A đang bị Viện kiểm sát áp dụng biện pháp tạm giam đến ngày 29/3/2022. Xét thấy cần tiếp tục tạm giam bị can để đảm bảo cho việc giải quyết vụ án đồng thời thời hạn tạm giam đối với A. sắp hết nên ngày 28/3/2022 theo đề nghị của Thẩm phán chủ tọa phiên tòa, Chánh án Tòa án ra quyết định tạm giam đối với bị can A. Việc áp dụng biện pháp ngăn chặn trong trường hợp này có các hướng quan điểm như sau:

Quan điểm thứ nhất cho rằng: Căn cứ khoản 1 Điều 277 BLTTHS thì đối với thời hạn chuẩn bị xét xử tội phạm ít nghiêm trọng là 30 ngày kể từ ngày Tòa án thụ lý hồ sơ vụ án, đồng thời căn cứ khoản 2 Điều 278 BLTTHS thì thời hạn tạm giam phải không quá thời hạn chuẩn bị xét xử tại khoản 1 Điều 277 BLTTHS. Do đó căn cứ khoản 1 Điều 278 BLTTHS và hướng dẫn tại điểm a tiểu mục 2.2 mục 2 chương I của Nghị quyết số 04/2004/NQ-HĐTP thì kể từ khi hồ sơ vụ án được Tòa án thụ lý và nếu xét thấy thời hạn tạm giam còn lại sắp hết (còn không quá 05 ngày) cần tiếp tục tạm giam bị can để đảm bảo cho việc giải quyết vụ án thì Tòa án có toàn bộ thẩm quyền ra quyết định tạm giam kể từ ngày thụ lý mà không phụ thuộc vào việc lệnh tạm giam của Viện kiểm sát đang còn, với thời hạn là 30 ngày kể từ ngày thụ lý (ngày 28/3/2022).

Quan điểm thứ hai cho rằng: Thời hạn tạm giam trong trường hợp này là 28 ngày kể từ ngày 30/3/2020 là ngày kế tiếp sau ngày cuối cùng của lệnh tạm giam trước đó (ngày 29/3/2022). Cụ thể là thời hạn tạm giam lúc này phải trừ đi 02 ngày, kể từ ngày thụ lý (ngày 28/3/2020) đến ngày cuối cùng theo lệnh tạm giam của Viện kiểm sát (ngày 29/3/2022). Bởi vì tính từ ngày thụ lý hồ sơ vụ án là ngày 28/3/2022 đến ngày hạn cuối của lệnh tạm giam là ngày 29/3/2022 thì bị can vẫn đang bị áp dụng lệnh tạm giam của Viện kiểm sát, do đó nếu Tòa án áp dụng lệnh tạm giam mới từ ngày 28/3/2022 thì sẽ chồng lệnh với Viện kiểm sát, mặc dù việc này không vi phạm về tố tụng nhưng gây bất lợi cho bị can đồng thời có thể gây khó khăn cho cơ quan thi hành án giai đoạn sau này khi tính thời hạn chấp hành hình phạt tù phải trừ đi thời gian bị can, bị cáo bị tạm giam, tạm giữ (nếu bị cáo bị kết án phạt tù).

Ngoài ra, một số trường hợp hiện chưa có quy định cụ thể về thủ tục tạm giam như: Sau khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử, lúc này thời hạn tạm giam bị cáo gần hết, Hội đồng xét xử (HĐXX) căn cứ vào khoản 3 Điều 278 BLTTHS để tiếp tục ra quyết định tạm giam với thời hạn cho đến khi kết thúc phiên tòa sơ thẩm, tại phiên tòa xét thấy vì lý do khách quan và có căn cứ để hoãn phiên tòa nên HĐXX căn cứ vào Điều 297 BLTTHS ra quyết định hoãn phiên tòa, thời hạn hoãn phiên tòa sơ thẩm không quá 30 ngày kể từ ngày ra quyết định hoãn phiên tòa theo quy định tại khoản 2 Điều 297 BLTTHS, lúc này thời hạn tạm giam của HĐXX đã hết. Hoặc trường hợp tại phiên tòa do phát sinh một số tình tiết mới cần làm rõ mà không thể giải quyết tại phiên tòa được nên sau khi nghị án HĐXX căn cứ Điều 280 BLTTHS tuyên trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung, tuy nhiên sau khi kết thúc phiên tòa thời hạn tạm giam của HĐXX đã hết. Như vậy đối với các trường hợp nói trên hiện nay chưa có quy định cụ thể về thủ tục tạm giam tiếp theo, tuy nhiên có một số quan điểm cho rằng, cần vận dụng quy định tại khoản 2 Điều 297 BLTTHS và tại khoản 3 Điều 280 BLTTHS trong các trường hợp này để ra quyết định tạm giam với thời hạn tương ứng là 30 ngày (tương ứng thời hạn hoãn phiên tòa) và 03 ngày (tương ứng thời hạn gửi hồ sơ kèm quyết định trả hồ sơ cho Viện kiểm sát). Từ các vấn đề trên cần có sửa đổi, bổ sung về quy định tại Điều 278 BLTTHS nhằm tạo cơ sở pháp lý đầy đủ.

Thứ hai, về biện pháp ngăn chặn “Bảo lĩnh” theo quy định tại Điều 121 

Biện pháp bảo lĩnh quy định tại Điều 121 BLTTHS, áp dụng đối với đối tượng là bị can hoặc bị cáo, sau khi đã có quyết định khởi tố vụ án và khởi tố bị can, đây là biện pháp ngăn chặn để thay thế biện pháp tạm giam. Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi và nhân thân của bị can, bị cáo, Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát, Tòa án có thể quyết định cho họ được bảo lĩnh. Bảo lĩnh là biện pháp ngăn chặn áp dụng đối với bị can, bị cáo khi có cá nhân hoặc tổ chức có giấy cam đoan để đảm bảo bị can, bị cáo phải có mặt theo giấy triệu tập, không bỏ trốn hoặc tiếp tục phạm tội hoặc vi phạm pháp luật khác; trong trường hợp cá nhân hoặc tổ chức nhận bảo lĩnh mà để bị can, bị cáo vi phạm nghĩa vụ đã cam đoan thì cá nhân hoặc tổ chức đó bị tước quyền nhận bảo lĩnh và tùy tính chất, mức độ vi phạm mà bị phạt tiền theo quy định của pháp luật còn bị can, bị cáo vi phạm nghĩa vụ cam đoan thì bị tạm giam. 

Về điều kiện áp dụng biện pháp bảo lĩnh đối với bị can, bị cáo chưa được quy định cụ thể nên gây khó khăn cho việc áp dụng. Điều 121 BLTTHS chỉ quy định căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà không xác định rõ trường hợp tội phạm cụ thể và đặc điểm về hoàn cảnh, nhân thân của người phạm tội như thế nào thì được áp dụng, do đó thực tế việc có áp dụng hay không áp dụng biện pháp ngăn chặn này vẫn tùy thuộc vào ý chủ quan của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, dẫn đến sự tùy nghi trong cách hiểu vấn đề và áp dụng pháp luật không thống nhất. Về vấn đề này có các hướng quan điểm sau:

Quan điểm thứ nhất cho rằng: Biện pháp bảo lĩnh là biện pháp thay thể biện pháp tạm giam nên người được áp dụng phải có đủ các yếu tố để đảm bảo chặt chẽ, để bảo đảm bị can, bị cáo sẽ không tiếp tục phạm tội, không bỏ trốn và có mặt đầy đủ khi có giấy triệu tập của cơ quan tiến hành tố tụng; không vi phạm pháp luật khác trong thời gian được bảo lĩnh. Vì vậy chỉ áp dụng đối với bị can, bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng hoặc nghiêm trọng, đồng thời có lý lịch, nơi cư trú rõ ràng, có nhân thân tốt, phạm tội lần đầu, thái độ khai báo thành khẩn... mới đủ điều kiện đảm bảo.

Quan điểm thứ hai cho rằng: Đối với trường hợp phạm tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng nhưng bị can, bị cáo bị ốm nặng, bị bệnh hiểm nghèo có xác nhận của cơ sở y tế cấp tỉnh trở lên; bị can, bị cáo là người khuyết tật nặng (trừ nhóm tội phạm xâm phạm an ninh quốc gia); là người là trụ cột gia đình trong điều kiện hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn; phụ nữ có thai, nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi; người già, người chưa thành niên… đồng thời có căn cứ xác định sau khi được tại ngoại, bị can, bị cáo sẽ có mặt theo giấy triệu tập của cơ quan tiến hành tố tụng, việc cho bị can, bị cáo tại ngoại không gây ảnh hưởng đến an ninh trật tự tại địa phương thì có thể xem xét áp dụng. 

Quan điểm thứ ba cho rằng: Biện pháp này có thể áp dụng đối với người thực hiện hành vi phạm tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng do vô ý hoặc người phạm tội thỏa mãn tình tiết “người phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể” theo quy định tại khoản 2 Điều 54 của Bộ luật Hình sự. Đồng thời không xem xét áp dụng đối với các trường hợp bị can, bị cáo đã có tiền án chưa được xóa án tích mà lại phạm tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng; là đối tượng phạm tội có tính chất chuyên nghiệp; hành vi phạm tội của bị can, bị cáo gây dư luận xấu trong xã hội.

Thứ ba, về biện pháp “Cấm đi khỏi nơi cư trú” theo quy định tại Điều 123

BLTTHS chưa quy định cụ thể khái niệm “nơi cư trú” trong biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú cũng như trong các vấn đề liên quan, nên để giải quyết vấn đề này cần áp dụng theo luật chuyên ngành là Luật cư trú 2020 và Thông tư 55/2021/TT-BCA của Bộ Công an ban hành ngày 15/5/2021 quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Cư trú về trách nhiệm quản lý cư trú. Thực tiễn cho thấytrường hợp bị can, bị cáo đăng ký hộ khẩu thường trú ở một địa phương sau đó sinh sống và đăng ký tạm trú tại địa phương khác, do điều kiện công việc nên tiếp tục chuyển đi nơi khác sinh sống nhưng chưa làm thủ tục thông báo với các cơ quan có thẩm quyền, chưa tiến hành đăng ký thường trú hay tạm trú tại nơi thực tế đang sinh sống do một số lý do khách quan.

Về vụ án cụ thể: Ngày 01/10/2022, Tòa án thụ lý hồ sơ vụ án đánh bạc trong đó có bị can A. là giáo viên đang công tác tại trường THPT Y. A. bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú. Theo hồ sơ vụ án thể hiện bị can A. là người có nhân thân tốt, lý lịch rõ ràng, phạm tội lần đầu, tuy nhiên các tài liệu về nơi ở của A. thể hiện A. có nơi đăng ký hộ khẩu thường trú tại xã Thăng Long, huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa,sau đó A. được điều về công tác tại trường THPT X thuộc phường Đông Vệ, TP. Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa công tác và đăng ký tạm trú tại phường Đông Vệ, TP. Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa, tuy nhiên vào tháng 7 năm 2022 do áp dụng chính sách thu hút viên chức về công tác tại vùng khó khăn nên A. chuyển về công tác tại trường THPT Y thuộc xã Cẩm Quý, huyện Cẩm Thủy, tỉnh Thanh Hóa. Hiện A. đang sinh sống tại đây nhưng chưa đăng ký với cơ quan công an và chính quyền địa phương, đồng thời vào cuối tuần A. đều trở về sinh hoạt tại nhà riêng tại phường Đông Vệ, TP. Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Trong trường hợp này, xác định nơi cư trú và phạm vi cấm rời khỏi đối với bị can A như thế nào?Vấn đề này có các hướng quan điểm sau:

Quan điểm thứ nhất cho rằng:Theo quy định tạiĐiều 11 Luật cư trú 2020 “Nơi cư trú của công dân bao gồm nơi thường trú, tạm trú” và tại khoản 9 Điều 2 Luật cư trú 2020 quy định “Nơi tạm trú là nơi công dân sinh sống trong một khoảng thời gian nhất định ngoài nơi thường trú và đã được đăng ký tạm trú”. Mặc dù A. đang sống tại xã Cẩm Quý, huyện Cẩm Thủy, tỉnh Thanh Hóa nhưng chưa đăng ký tạm trú tại đây, đồng thời A. vẫn còn đang sinh hoạt tại nơi A đã đăng ký tạm trú là phường Đông Vệ, TP. Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Vì vậy để đảm bảo việc áp dụng đúng quy định của pháp luật về nơi cư trú và để giám sát, quản lý bị can cần sử dụng nơi đăng ký tạm trú tại phường Đông Vệ, TP. Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóađể ra Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú và giao cho UBND phường Đông Vệ, TP. Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa quản lý, theo dõi A.

Quan điểm thứ hai cho rằng: Hiện nay theo quy định của pháp luật công dân không bị hạn chế về quyền tự do đi lại, cư trú nên việc bị can, bị cáo không sinh sống tại nơi đăng ký hộ khẩu thường trú hay đăng ký tạm trú là không trái pháp luật. Trường hợp này, do bị can đã không còn sinh sống tại nơi đăng ký hộ khẩu thường trú, nơi đăng ký tạm trú nên nếu xác định phạm vi bị cấm rời khỏi đối với bị can, bị cáo theo nơi đăng ký hộ khẩu thường trú hoặc nơi đăng ký tạm trú sẽ không phù hợp, không bảo đảm quyền công dân của bị can, bị cáo đồng thời gây khó khăn cho các cơ quan liên quan trong việc theo dõi, quản lý bị can, bị cáo cũng như việc giải quyết vụ án. Vì vậy, cần xác định nơi cư trú và phạm vi cấm bị can rời khỏi khi áp dụng lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú là nơi bị can đang sinh sống thực tế và gửi lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú cho cơ quan có thẩm quyền là UBND xã Cẩm Quý, huyện Cẩm Thủy, tỉnh Thanh Hóa.

Quan điểm thứ ba cho rằng: Căn cứ nhân thân của A. có thể linh hoạt xử lý trong việc xác địnhnơi cư trú, phạm vi cấm đi khỏi nơi cư trú, cần thực hiện việc bị can có nguyện vọng được thể hiện quan điểm của mình cụ thể trong giấy cam đoan nhằm đảm bảo quyền, lợi ích chính đáng của bị can, vừa tạo điều kiện thuận lợi cho bị can tiếp tục công tác, sinh hoạt đồng thờiđảm bảo cho công tác giải quyết vụ án thuận lợi.

Thứ tư, về biện pháp “Tạm hoãn xuất cảnh” theo quy định tại Điều 124

Tạm hoãn xuất cảnh là chế định mới của BLTTHS được quy định tại Điều 124 BLTTHS, là biện pháp nhằm ngăn chặn những người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố mà qua kiểm tra, xác minh có đủ căn cứ xác định người đó bị nghi thực hiện tội phạm và xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ; hoặc bị can, bị cáo được tại ngoại trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, chờ thi hành án và họ đang có hành vi chuẩn bị xuất cảnh ra nước ngoài nhằm tránh việc xử lý hành vi phạm tội, trốn tránh việc thi hành án. Vấn đề đặt ra là trong trường hợp bị can, bị cáo không bị tạm giam và nếu xét thấy cần thiết thì cơ quan tiến hành tố tụng có thể áp dụng đồng thời biện pháp tạm hoãn xuất cảnh và cấm đi khỏi nơi cư trú hay không? Vấn đề này có các hướng quan điểm như sau:

Quan điểm thứ nhất cho rằng: Theo quy định tại khoản 1 Điều 109 BLTTHS về các biện pháp ngăn chặn thì “Để kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn cứ chứng tỏ người bị buộc tội sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội hoặc để bảo đảm thi hành án, cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong phạm vi thẩm quyền của mình có thể áp dụng biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ, tạm giam, bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm, cấm đi khỏi nơi cư trú, tạm hoãn xuất cảnh”. Như vậy BLTTHS không quy định rõ là có thể áp dụng cùng lúc biện pháp tạm hoãn xuất cảnh và biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú hay không mà chỉ quy định cơ quan, người có thẩm quyền trong phạm vi thẩm quyền của mình có thể áp dụng. Do đó nếu áp dụng đồng thời cả hai biện pháp là không đúng nguyên tắc trong tố tụng, sẽ gây bất lợi cho bị can, bị cáo, ảnh hưởng đến quyền, lợi ích của bị can, bị cáo. Trường hợp này chỉ được áp dụng biện pháp tạm hoãn xuất cảnh là phù hợp quy định của pháp luật.

Quan điểm thứ hai cho rằng: Biện pháp tạm hoãn xuất cảnh là biện pháp hạn chế quyền tự do đi lại của người bị áp dụng ra khỏi biên giới lãnh thổ Việt Nam chứ không hạn chế quyền tự do đi lại trong nước, do Cục quản lý xuất nhập cảnh là cơ quan quản lý việc xuất cảnh, còn cấm đi khỏi nơi cư trú thì được thực hiện bởi chính quyền địa phương nơi bị can cư trú. Nếu chỉ áp dụng biện pháp tạm hoãn xuất cảnh đối với người phạm tội mà không áp dụng đồng thời cả biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú thì có khả năng bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho quá trình tiến hành tố tụng. BLTTHS cũng không cấm áp dụng hai biện pháp ngăn chặn cùng trong một khoảng thời gian. Do đó để đảm bảo cho việc quản lý bị can, bị cáo trong quá trình giải quyết vụ án, cơ quan tiến hành tố tụng có thể áp dụng đồng thời cả hai biện pháp nói trên.

Ngoài ra, BLTTHS hiện nay chưa quy định về trường hợp đối với đối tượng bị áp dụng biện pháp tạm hoãn xuất cảnh là bị can, bị cáo có dấu hiệu xuất cảnh nhằm tiêu hủy tài liệu, chứng cứ của vụ án bởi tài liệu có giá trị chứng minh tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội hiện đang ở nước ngoài, mà không nhằm mục đích bỏ trốn.  Qua các vướng mắc, bất cập trên cần có văn bản quy định hướng dẫn cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng trong thực tiễn, tạo sự thống nhất trong nhận thức và áp dụng pháp luật.

NGUYỄN MINH CƯƠNG

Tòa án quân sự khu vực Quân khu 4

Nguyễn Mỹ Linh