Thực hiện quyền bào chữa trong Tố tụng Hình sự là việc người bị buộc tội và người bào chữa đưa ra lý lẽ, chứng cứ hoặc thực hiện bất kỳ biện pháp nào không trái pháp luật nhằm xác định sự vô tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội trước sự buộc tội của cơ quan có thẩm quyền tiến hành Tố tụng Hình sự.
Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội là việc tạo ra những tiền đề về mặt pháp lý, thiết lập cơ chế thực hiện các biện pháp cần thiết nhằm bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội trong Tố tụng Hình sự.
Thực hiện và bảo đảm thực hiện quyền bào chữa của người bị buộc tội trong Tố tụng Hình sự không chỉ góp phần bảo đảm cho công tác điều tra, truy tố, xét xử được khách quan, toàn diện, tránh oan sai và bỏ lọt tội phạm mà còn góp phần bảo vệ quyền con người của người bị buộc tội.
Ở nước ta, bảo đảm quyền bào chữa là một trong những nguyên tắc Tố tụng Hình sự và được ghi nhận ngay từ Hiến pháp năm 1946. Các bản Hiến pháp năm 1959, năm 1980, năm 1992 tiếp tục ghi nhận và đề cao nguyên tắc này. Hiện nay, quyền bào chữa của người bị buộc tội được ghi nhận tại khoản 4 Điều 31 Chương III Hiến pháp năm 2013 về quyền con người, quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân. Theo đó, người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có quyền tự bào chữa, nhờ Luật sư hoặc người khác bào chữa. Có thể thấy, đây là lần đầu tiên quyền bào chữa của người bị buộc tội được ghi nhận là một trong những quyền con người, quyền cơ bản của công dân. So với các văn bản Hiến pháp trước đó, Hiến pháp năm 2013 đã mở rộng đối tượng được bảo đảm quyền bào chữa không chỉ là bị can, bị cáo mà còn bao gồm người bị bắt, người bị tạm giữ.
Đồng thời, mở rộng cả phạm vi chủ thể thực hiện quyền bào chữa bao gồm Luật sư hoặc người khác có khả năng bào chữa. Mặt khác, theo quy định của Hiến pháp năm 2013, quyền bào chữa của người bị buộc tội không chỉ được thực hiện ở giai đoạn xét xử vụ án như trước mà được thực hiện ngay từ thời điểm người bị tình nghi phạm tội bị bắt cho đến khi khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử.
Việc Hiến pháp năm 2013 quy định quyền bào chữa với tính chất là một quyền con người, mở rộng phạm vi chủ thể quyền bào chữa cũng như chủ thể được thực hiện quyền bào chữa, thời điểm thực hiện quyền bào chữa… không chỉ thể hiện sự tôn trọng, đề cao quyền con người trong hoạt động lập hiến, mà còn là nền tảng pháp lý quan trọng cho việc hoàn thiện hệ thống pháp luật Tố tụng Hình sự về bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội một cách toàn diện và đầy đủ.
Để cụ thể hóa quy định của Hiến pháp năm 2013 về bảo đảm quyền bào chữa, Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 đã dành một chương riêng (Chương V) quy định về bào chữa, tạo cơ sở pháp lý cần thiết để người buộc tội thực hiện quyền bào chữa của mình trên thực tế. Cụ thể là:
Thứ nhất, quy định về diện người được bảo đảm quyền bào chữa
Nếu theo quy định của Bộ Luật Tố tụng Hình sự (BLTTHS) năm 2003, người được bảo đảm quyền bào chữa chỉ bao gồm: người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, thì BLTTHS năm 2015 đã bổ sung người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang và người bị bắt theo quyết định truy nã cũng có quyền tự bào chữa, nhờ người bào chữa (cũng được bảo đảm quyền bào chữa). Như vậy, BLTTHS năm 2015 đã mở rộng hơn diện người được bảo đảm quyền bào chữa so với Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003.
Thứ hai, quy định về khái niệm người bào chữa và diện người bào chữa
Mặc dù người bào chữa là một trong những người tham gia Tố tụng Hình sự, có vai trò không nhỏ đối với việc giải quyết vụ án hình sự một cách khách quan, toàn diện, bảo vệ công lý, nhưng BLTTHS năm 2003 không có quy phạm định nghĩa về khái niệm người bào chữa. Khắc phục sự bất cập này, BLTTHS năm 2015 quy định: “Người bào chữa là người được người bị buộc tội nhờ bào chữa hoặc cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng chỉ định và được cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng tiếp nhận việc đăng ký bào chữa” (Điều 72, khoản 1). Từ quy định này thấy rằng, để được coi là người bào chữa trong Tố tụng Hình sự phải đáp ứng hai điều kiện:
(1) Được người buộc tội nhờ bào chữa hoặc cơ quan có thẩm quyền tiến hành Tố tụng Hình sự chỉ định (bào chữa bắt buộc).
(2) Được cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng chấp nhận việc đăng ký bào chữa.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 72 BLTTHS năm 2015, những người có thể tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa đã được mở rộng hơn so với quy định của BLTTHS năm 2003. Theo đó, bên cạnh Luật sư, bào chữa viên nhân dân, người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thì trợ giúp viên pháp lý cũng có thể trở thành người bào chữa miễn phí cho các đối tượng chính sách được trợ giúp pháp lý.
Tuy nhiên, không phải bất cứ ai thuộc diện các đối tượng nêu trên đều có thể trở thành người bào chữa. Để phù hợp với quy định của Luật Luật sư, cũng như bảo đảm tính khách quan, tính chặt chẽ của hoạt động tố tụng, khoản 4 Điều 72 BLTTHS năm 2015 quy định những người sau đây không được bào chữa cho người bị buộc tội:
(1) Người đã tiến hành tố tụng trong vụ án đó, người thân thích của người đã hoặc đang tiến hành tố tụng trong vụ án đó.
(2) Người tham gia vụ án đó với tư cách là người làm chứng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật.
(3) Người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự, người bị kết án mà chưa được xóa án tích, người đang bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính, đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, cơ sở giáo dục bắt buộc.
Trong số những đối tượng không được làm người bào chữa nêu trên, có những đối tượng đã được BLTTHS năm 2003 quy định, nhưng cũng có đối tượng mới được BLTTHS năm 2015 bổ sung, đó là người đã tham gia vụ án đó với tư cách là người dịch thuật và người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự; đã bị kết án mà chưa được xóa án tích, người đang bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính, đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, cơ sở giáo dục bắt buộc.
Để bảo đảm tốt nhất quyền bào chữa của người bị buộc tội, pháp luật cho phép một người bào chữa có thể bào chữa cho nhiều người bị buộc tội trong cùng một vụ án nếu quyền và lợi ích của họ không đối lập nhau. Đồng thời, pháp luật cũng cho phép nhiều người bào chữa có thể bào chữa cho một người bị buộc tội.
Thứ ba, quy định về thủ tục đăng ký bào chữa
Theo quy định của BLTTHS năm 2003, để tham gia bào chữa trong vụ án, người bào chữa phải được cấp giấy chứng nhận người bào chữa. Hiện nay, BLTTHS năm 2015 đã thay thủ tục “cấp giấy chứng nhận bào chữa” bằng thủ tục “đăng ký bào chữa”, theo đó trong thời hạn 24 giờ kể từ khi nhận đủ giấy tờ mà người bào chữa phải xuất trình theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 78 BLTTHS năm 2015, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm kiểm tra giấy tờ do người bào chữa cung cấp, nếu thấy đủ điều kiện luật định thì vào sổ đăng ký bào chữa và gửi ngay văn bản thông báo người bào chữa cho người đăng ký và cơ sở giam giữ, đồng thời lưu các giấy tờ liên quan đến đăng ký bào chữa trong hồ sơ vụ án. Ngược lại, nếu xét thấy không đủ điều kiện đăng ký bào chữa thì từ chối việc đăng ký bào chữa và phải có văn bản nêu rõ lý do từ chối.
Từ quy định trên thấy rằng, thời hạn chấp nhận đăng ký bào chữa được rút ngắn từ 03 ngày theo quy định của BLTTHS năm 2003 xuống còn 01 ngày (24 giờ) kể từ khi nhận đủ các giấy tờ luật định. Để khắc phục tình trạng “đẻ” thêm thủ tục, giấy tờ liên quan đến bào chữa, BLTTHS năm 2015 quy định cụ thể các loại giấy tờ cần phải xuất trình tương ứng với từng diện người bào chữa trong trường hợp bào chữa thông thường và bào chữa chỉ định. Ngoài ra, để xóa bỏ việc người bào chữa phải thực hiện thủ tục xin cấp giấy chứng nhận người bào chữa riêng cho từng giai đoạn tố tụng như trước đây, BLTTHS năm 2015 quy định văn bản thông báo người bào chữa có giá trị sử dụng trong suốt quá trình tham gia tố tụng. Những quy định trên đây đã tạo thuận lợi hơn cho những đối tượng muốn trở thành người bào chữa, bảo đảm sự minh bạch, rõ ràng, cũng như bảo đảm tính kịp thời và hiệu quả của hoạt động bào chữa trong Tố tụng Hình sự.
Thứ tư, quy định về lựa chọn, chỉ định người bào chữa
Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 đã có sự sửa đổi, bổ sung đáng kể về lựa chọn, chỉ định người bào chữa, theo đó người bị buộc tội, người đại diện hoặc người thân thích của họ có quyền lựa chọn người bào chữa (khoản 1 Điều 75). So với quy định của BLTTHS năm 2003, BLTTHS năm 2015 đã mở rộng chủ thể có quyền lựa chọn người bào chữa bằng việc quy định bổ sung người thân thích của người bị buộc tội có quyền mời người bào chữa. Đồng thời, còn quy định cụ thể thủ tục và trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, cơ quan quản lý người bị tạm giữ, tạm giam khi tiếp nhận được yêu cầu nhờ người bào chữa từ người bị buộc tội phải chuyển yêu cầu này hoặc thông báo cho người bào chữa được họ nhờ biết; có trách nhiệm tạo điều kiện cho người bào chữa liên hệ với người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam để thỏa thuận về việc nhờ bào chữa.
Sự sửa đổi, bổ sung này của BLTTHS năm 2015 có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Nó không chỉ giải quyết những vướng mắc trong cơ chế bảo đảm cho người bị buộc tội đang bị tạm giữ, tạm giam có cơ hội tiếp cận với người bào chữa để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, mà còn ngăn ngừa các biểu hiện ngăn cản, gây khó khăn cho người bào chữa khi tham gia tố tụng, qua đó bảo đảm tốt hơn quyền bào chữa của người bị buộc tội, nhất là người bị bắt, người bị tạm giữ, tạm giam. Đặc biệt, để tháo gỡ những vướng mắc liên quan đến việc bào chữa cho người bị tạm giữ, tạm giam, đồng thời nhằm bảo đảm tính minh bạch của hoạt động Tố tụng Hình sự, BLTTHS năm 2015 đã bổ sung quy định: “Trong trường hợp người bị bắt, người bị tạm giữ, người bị tạm giam trong giai đoạn điều tra có đề nghị từ chối người bào chữa do người thân thích của họ nhờ thì điều tra viên phải cùng người bào chữa đó trực tiếp gặp người bị bắt, người bị tạm giữ, người bị tạm giam để xác nhận việc từ chối” (khoản 2 Điều 77).
Bên cạnh đó, để bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội theo khung hình phạt có quy định các loại, mức hình phạt nghiêm khắc, BLTTHS năm 2015 đã mở rộng các trường hợp bắt buộc phải có người bào chữa (trường hợp người bị buộc tội được chỉ định người bào chữa), đối với bị can, bị cáo về tội mà Bộ luật Hình sự quy định mức cao nhất của khung hình phạt là 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 57 BLTTHS năm 2003, chỉ bị can, bị cáo về tội theo khung hình phạt có mức cao nhất là tử hình mới được chỉ định người bào chữa. Trong khi đó, Điều 76 BLTTHS năm 2015 thì bị can, bị cáo về tội mà Bộ luật Hình sự quy định mức cao nhất của khung hình phạt là 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình phải được chỉ định người bào chữa. Thêm vào đó, việc chỉ định người bào chữa cho đối tượng có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần theo quy định của BLTTHS năm 2003 chỉ áp dụng đối với bị can, bị cáo, BLTTHS năm 2015 đã mở rộng đối với cả người bị bắt, người bị tạm giữ.
Thứ năm, quy định về thời điểm người bào chữa tham gia tố tụng
Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 quy định thời điểm tham gia tố tụng của người bào chữa sớm hơn, theo đó người bào chữa có quyền tham gia tố tụng kể từ khi người bị bắt có mặt tại trụ sở của cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra (Điều 74) thay vì tham gia từ khi có quyết định tạm giữ như quy định của BLTTHS năm 2003.
Sự sửa đổi này xuất phát từ việc BLTTHS năm 2015 coi người bị bắt là người bị buộc tội (khoản 1 Điều 4) và người bị buộc tội có quyền tự bào chữa, nhờ người bào chữa. Với quy định này, người bào chữa được quyền tham gia tố tụng rất sớm, từ trước khi có quyết định khởi tố bị can, qua đó góp phần bảo vệ kịp thời quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội ngay từ những hoạt động đầu tiên của quá trình tố tụng.
Thứ sáu, quy định về quyền và nghĩa vụ của người bào chữa
Trong BLTTHS năm 2003, quyền và nghĩa vụ của người bào chữa tuy đã được quy định nhưng chưa thật sự đầy đủ. Để người bào chữa thực hiện tốt việc bào chữa, đồng thời tăng cường trách nhiệm của người bào chữa khi tham gia tố tụng, BLTTHS năm 2015 đã bổ sung quyền của người bào chữa, gồm:
(1) Quyền gặp, hỏi người bị buộc tội.
(2) Quyền có mặt khi lấy lời khai của người bị bắt. Sau mỗi lần lấy lời khai, hỏi cung của người có thẩm quyền kết thúc, người bào chữa có thể hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can.
(3) Được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng báo trước về thời gian, địa điểm lấy lời khai, hỏi cung và thời gian, địa điểm tiến hành hoạt động điều tra theo quy định của BLTTHS.
(4) Thu thập chứng cứ; kiểm tra, đánh giá và trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập chứng cứ, giám định bổ sung, giám định lại, định giá lại tài sản.
(5) Đề nghị thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế.
Cùng với việc mở rộng quyền, BLTTHS năm 2015 còn bổ sung nghĩa vụ của người bào chữa phải có mặt theo yêu cầu của cơ quan điều tra, viện kiểm sát; không được tiết lộ thông tin mà mình biết được khi tham gia các hoạt động tố tụng liên quan đến vụ án hoặc liên quan đến người mà mình bào chữa cho những người không có trách nhiệm giải quyết vụ án.
Ngoài ra, BLTTHS năm 2015 còn bổ sung cơ chế để người bào chữa thực hiện tốt việc bào chữa như: Quy định trách nhiệm của các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải thông báo trước cho người bào chữa thời gian, địa điểm tiến hành các hoạt động tố tụng mà họ có quyền tham gia; quy định cụ thể thủ tục gặp người bị buộc tội đang bị bắt, tạm giữ, tạm giam, thủ tục giao nộp chứng cứ, thủ tục đọc, ghi chép, sao chụp tài liệu trong hồ sơ vụ án.
Trên đây là những sửa đổi, bổ sung cơ bản quan trọng của BLTTHS năm 2015 về quyền bào chữa và bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội. Những sửa đổi, bổ sung này đã tạo cơ sở pháp lý cần thiết cho việc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội - người yếu thế trong mối quan hệ với chủ thể buộc tội.
Thạc sĩ TĂNG VĂN HOÀNG
Bàn về tình tiết ‘dùng thủ đoạn nguy hiểm’ quy định tại Bộ luật Hình sự năm 2015