Ảnh minh họa.
Giao dịch dân sự (GDDS) là loại giao dịch phát sinh thường xuyên trong đời sống xã hội. Đời sống xã hội càng tiến bộ, đặc biệt khi được đặt trong xu thế hội nhập hiện nay, quá trình giao lưu kinh tế, văn hóa, khoa học, công nghệ với các nước trên thế giới phát triển một cách nhanh chóng thì các GDDS càng trở nên phong phú, đa dạng và sôi động, việc tham gia các GDDS của các chủ thể trở thành nhu cầu tất yếu, tự nhiên và vì vậy các GDDS không ngừng được mở rộng về số lượng, quy mô cùng với sự đa dạng của các chủ thể. Để định hướng xử sự của các chủ thể nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên trong GDDS, với mục tiêu không chỉ ổn định mà còn khuyến khích các GDDS ngày càng phát triển, pháp luật điều chỉnh về các biện pháp bảo đảm (BPBĐ) cần thiết phải được hoàn thiện. Pháp luật dân sự Việt Nam trong quá trình hình thành và phát triển của mình đã hoàn thiện không ngừng các quy định, đặc biệt là các quy định về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ.
Ở góc độ tổng thể, so với quy định của Bộ luật dân sự (BLDS) năm 2005 thì BLDS năm 2015, có thể thấy sự thay đổi rõ ràng nhất trong chế định này đó là bổ sung hai BPBĐ: Bảo lưu quyền sở hữu và Cầm giữ tài sản. Việc quy định thêm hai BPBĐ mới giúp cho các bên trong GDDS có thêm sự lựa chọn trong việc tìm ra BPBĐ tối ưu và thích hợp với từng trường hợp cụ thể.
Biện pháp bảo lưu quyền sở hữu là BPBĐ thực hiện nghĩa vụ được áp dụng trong hợp đồng mua bán tài sản và hợp đồng trao đổi tài sản; theo đó, bên bán có thể tạm hoãn chuyển giao quyền sở hữu đối với đối tượng của hợp đồng cho bên mua đến khi bên mua thực hiện đầy đủ nghĩa vụ thanh toán cho bên bán.
Chủ thể, đối tượng, phạm vi, hình thức của biện pháp bảo lưu quyền sở hữu
Chủ thể của biện pháp bảo lưu quyền sở hữu
Các bên tham gia vào quan hệ bảo đảm được gọi là chủ thể của BPBĐ thực hiện nghĩa vụ. Trong hầu hết các BPBĐ, các bên trong quan hệ nghĩa vụ được bảo đảm đồng thời cũng chính là các bên tham gia vào quan hệ bảo đảm (trừ trường hợp bên nhận bảo đảm là người thứ ba) bao gồm bên bảo đảm và bên nhận bảo đảm.
Bên bảo đảm là bên có nghĩa vụ trong nghĩa vụ chính được bảo đảm, gồm có bên cầm cố, bên thế chấp, bên đặt cọc, bên ký cược, bên ký quỹ, bên mua trong hợp đồng mua bán tài sản có bảo lưu quyền sở hữu, bên bảo lãnh, tổ chức chính trị - xã hội ở cơ sở trong trường hợp tín chấp, bên có nghĩa vụ trong hợp đồng song vụ đối với biện pháp cầm giữ tài sản [1]. Bên nhận bảo đảm là bên có quyền trong quan hệ nghĩa vụ chính được bảo đảm gồm có bên nhận cầm cố, bên nhận thế chấp, bên nhận đặt cọc, bên nhận ký cược, bên có quyền trong ký quỹ, bên bán trong hợp đồng mua bán tài sản có bảo lưu quyền sở hữu, bên nhận bảo lãnh, tổ chức tín dụng trong trường hợp tín chấp, bên có quyền trong hợp đồng song vụ đối với biện pháp cầm giữ tài sản [2]. Như vậy, đối với biện pháp bảo lưu quyền sở hữu thì bên bảo đảm là bên mua còn bên nhận bảo đảm lại bên bán trong hợp đồng mua bán tài sản có bảo lưu quyền sở hữu.
Đối tượng của biện pháp bảo lưu quyền sở hữu
Tài sản, một công việc phải thực hiện hay sự uy tín đều có thể là đối tượng của các BPBĐ thực hiện nghĩa vụ, phụ thuộc vào sự thỏa thuận của các bên trong quan hệ bảo đảm hoặc theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, đối tượng của các biện pháp bảo lưu quyền sở hữu chỉ có thể là tài sản. Để một tài sản có thể trở thành đối tượng của biện pháp bảo lưu quyền sở hữu trước hết chúng cần thỏa mãn các điều kiện của một tài sản trong hợp đồng mua bán tài sản dưới đây vì dựa trên đặc điểm của bảo lưu quyền sở hữu thì đây là một biện pháp gắn liền với hợp đồng mua bán tài sản.
Thứ nhất, tài sản phải được phép giao dịch. Theo khoản 1 Điều 431 BLDS năm 2015 “Tài sản được quy định tại Bộ luật này đều có thể là đối tượng của hợp đồng mua bán. Trường hợp theo quy định của luật, tài sản bị cấm hoặc bị hạn chế chuyển nhượng thì tài sản là đối tượng của hợp đồng mua bán phải phù hợp với các quy định đó”. Như vậy, dù tài sản có thuộc loại hạn chế lưu thông nhưng nếu không bị cấm hoặc bị hạn chế chuyển nhượng thì vẫn có thể là đối tượng của hợp đồng mua bán và đồng thời cũng có thể là đối tượng của biện pháp bảo lưu quyền sở hữu. Ngược lại, nếu theo quy định của Bộ luật này hoặc các văn bản pháp luật khác, tài sản bị cấm hoặc hạn chế chuyển nhượng thì nó sẽ không là đối tượng của biện pháp bảo lưu quyền sở hữu.
Thứ hai, tài sản phải thuộc sở hữu của người bán hoặc người bán có quyền bán [3]. hợp đồng mua bán thực chất là việc bên bán chuyển quyền sở hữu cho bên mua. Và việc chuyển quyền sở hữu này là quyền định đoạt của chủ sở hữu tài sản theo quy định tại Điều 194 BLDS năm 2015. Vì vậy, người bán phải là chủ sở hữu của tài sản là đối tượng của hợp đồng mua bán cũng như của biện pháp bảo lưu quyền sở hữu.
Thứ ba, tài sản phải được xác định rõ. Sự phát triển đa dạng của các GDDS khiến cho đối tượng của hợp đồng mua bán cũng trở nên phong phú, vì thế việc xác định cụ thể đối tượng là việc làm cần thiết cho dù nó là tài sản hay là một công việc. Với đối tượng là tài sản, tính cụ thể được thể hiện thông qua các phương diện sau của đối tượng như số lượng, chất lượng, kiểu dáng, màu sắc, giá tiền… Theo đó, xác định được chính xác nghĩa vụ giao tài sản của người bán, nghĩa vụ thanh toán của người mua cũng như việc người mua biết được nghĩa vụ thanh toán của mình và người bán đã thực hiện đúng, đủ nghĩa vụ hay chưa. Nếu xảy ra sự vi phạm từ phía người mua, bên bán có thể dễ dàng xác định được và thực hiện bảo lưu quyền sở hữu.
Thứ tư, tài sản không đang là đối tượng của BPBĐ khác (trừ khi được bên nhận bảo đảm đồng ý hoặc luật có quy định khác). Theo quy định của pháp luật hiện hành, cụ thể là đối với biện pháp cầm cố, thế chấp thì bên bảo đảm chỉ có thể bán tài sản nếu được sự đồng ý của bên nhận bảo đảm hoặc theo quy định của luật.
Bên cạnh những điều kiện kể trên, đối tượng của biện pháp bảo lưu quyền sở hữu còn phải là vật không tiêu hao. Đây là yêu cầu riêng của đối tượng biện pháp bảo lưu quyền sở hữu. “Vật không tiêu hao là vật khi đã qua sử dụng nhiều lần mà cơ bản vẫn giữ được tính chất, hình dáng về tính năng sử dụng ban đầu”[4]. Đây là một điều kiện cần thiết bởi nếu như đối tượng là vật tiêu hao thì khi bên mua không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ như đã thỏa thuận và người bán đòi lại tài sản thì lúc bấy giờ tính chất, kiểu dáng đã bị thay đổi, tính năng sử dụng cũng không còn được như ban đầu. Lúc này, quyền đòi lại tài sản của bên bán sẽ không được đảm bảo. Trong trường hợp tài sản không còn nữa thì việc đặt ra bảo lưu quyền sở hữu cũng không còn ý nghĩa.
Phạm vi của biện pháp bảo lưu quyền sở hữu
Quy định tại khoản 1 Điều 331 BLDS năm 2015 như sau: “Trong hợp đồng mua bán, quyền sở hữu tài sản có thể được bên bán bảo lưu cho đến khi nghĩa vụ thanh toán được thực hiện đầy đủ”. Từ đây, ta ngầm hiểu biện pháp bảo lưu quyền sở hữu chỉ có thể áp dụng đối với hợp đồng mua bán. Tuy nhiên, khi hiểu được bản chất của biện pháp này là bảo lưu quyền sở hữu thì có thể suy ra bất kì GDDS nào thỏa mãn hai điều kiện: Một là làm phát sinh nghĩa vụ của bên nhận chuyển giao quyền sở hữu (bởi lẽ tồn tại nghĩa vụ cần được bảo đảm thì mới cần đến BPBĐ); Hai là liên quan đến việc chuyển giao quyền sở hữu thì đều có thể áp dụng biện pháp này để bảo lưu quyền sở hữu của mình. Theo đó, không chỉ có hợp đồng mua bán đáp ứng hai điều kiện trên mà hợp đồng trao đổi tài sản theo quy định tại Điều 455 BLDS năm 2015 cũng thỏa mãn các điều kiện kể trên.
Mặt khác, nếu chưa xét đến bản chất của biện pháp này mà căn cứ theo khoản 4 Điều 455 BLDS năm 2015: “Mỗi bên đều được coi là người bán đối với tài sản giao cho bên kia và là người mua đối với tài sản nhận về. Các quy định về hợp đồng mua bán từ Điều 430 đến Điều 439, từ Điều 441 đến Điều 449 và Điều 454 của Bộ luật này cũng được áp dụng đối với hợp đồng trao đổi tài sản” thì hợp đồng trao đổi tài sản với tư cách là một hợp đồng mua bán đặc biệt cũng có thể áp dụng biện pháp bảo lưu quyền sở hữu.
Hình thức của biện pháp bảo lưu quyền sở hữu
Về hình thức của biện pháp bảo lưu quyền sở hữu được BLDS năm 2015 quy định: Bảo lưu quyền sở hữu phải được lập thành văn bản hoặc được ghi trong hợp đồng mua bán”[5]. Việc quy định hình thức phải bằng văn bản được cho là hợp lí, làm cho việc thuận về bảo lưu quyền sở hữu giữa hai bên có căn cứ, là bằng chứng xác thực từ đó bảo vệ được quyền và lợi ích của họ. Đây là số ít các loại giao dịch mà pháp luật yêu cầu hình thức xác lập phải bằng văn bản. Vì vậy, biện pháp bảo lưu quyền sở hữu sẽ vô hiệu dù hai bên có thỏa thuận nhưng không lập thành văn bản.
Mặt khác, luật chỉ quy định bảo lưu quyền sở hữu phải được lập thành văn bản nhưng không nói là văn bản đó cần phải có chữ ký của hai bên hay không. Pháp luật hiện hành chưa có quy định nào hướng dẫn cụ thể về vấn đề này nên khi áp dụng pháp luật cần phải dựa vào hoàn cảnh thực tế mà cân nhắc đưa ra quyết định phù hợp. Luật cho phép các bên chủ thể lựa chọn xác lập bảo lưu quyền sở hữu bằng văn bản hay ghi trong hợp đồng mua bán. Nếu bảo lưu quyền sở hữu phát sinh sau khi đã giao kết hợp đồng thì bảo lưu quyền sở hữu sẽ được thỏa thuận lập thành văn bản riêng. Thêm vào đó, căn cứ căn cứ theo khoản 1 điều 403 BLDS năm 2015: “[…]Phụ lục hợp đồng có hiệu lực như hợp đồng. Nội dung của phụ lục hợp đồng không được trái với nội dung của hợp đồng” và khoản 3 Điều 121 “Hợp đồng sửa đổi phải tuân theo hình thức của hợp đồng ban đầu”. Nếu hợp đồng mua bán trc đó đã công chứng nhưng chưa thỏa thuận về biện pháp bảo lưu, sau này các bên lại thiết lập phụ lục của hợp đồng trong đó có biện pháp bảo lưu quyền sở hữu thì phụ lục cũng phải thực hiện theo hình thức hợp đồng chính, tức là cũng phải công chứng chứng thực. Từ những quy định trên, ta thấy hình thức là một vấn đề các chủ thể phải lưu ý để tránh trường hợp GDDS vô hiệu vì hình thức không đúng với quy định của pháp luật.
Về trách nhiệm pháp lý khi vi phạm nghĩa vụ được bảo đảm, vì tài sản thuộc sở hữu của bên nhận bảo đảm (bên bán) nên sẽ không đặt ra vấn đề về xử lý tài sản bảo đảm khi có sự vi phạm nghĩa vụ đã đến hạn. Trong trường hợp này, bên bán có quyền truy đòi tài sản từ người mua hoặc người thứ ba. Cùng với đó, bên bán có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại từ lỗi của bên mua. Đồng thời, bên bán phải hoàn trả số tiền bên mua đã đưa sau khi trừ đi giá trị hao mòn sau thời gian dùng và số tiền chênh lệch mà bên mua hoặc người thứ ba đã làm tăng lên.
Bên cạnh đó, theo quy định tại Điều 334 BLDS năm 2015, bảo lưu quyền sở hữu chấm dứt trong những trường hợp sau đây:
Thứ nhất, nghĩa vụ thanh toán cho bên bán được thực hiện xong. Mục đích của việc bảo lưu quyền sở hữu là để bảo đảm nghĩa vụ thanh toán của bên mua, cho nên khi bên mua đã hoàn thành nghĩa vụ thanh toán một cách đầy đủ cho bên bán thì không có lý do gì để tiếp tục bảo lưu quyền sở hữu tài sản đó. Ngay thời điểm đó, bảo lưu quyền sở hữu chấm dứt và quyền sở hữu tài sản được chuyển giao cho bên mua. Sẽ có hai trường hợp xảy ra, nếu tài sản không phải đăng ký thì quyền sở hữu được xác lập ngày cho bên mua, còn nếu tài sản phải đăng ký thì hai bên phải hoàn tất thủ tục đăng ký theo luật định.
Thứ hai, bên bán nhận lại tài sản bảo lưu quyền sở hữu. Như đã trình bày ở trên, khi bên mua không hoàn thành nghĩa vụ thanh toán theo thỏa thuận thì bên bán có quyền đòi lại tài sản. Và khi bên bán nhận lại tài sản sau khi thực hiện quyền truy đòi thì đây cũng là lúc bảo lưu quyền sở hữu chấm dứt.
Thứ ba, theo thỏa thuận của các bên. Dựa trên các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, việc xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình trên cơ sở tự do, tự nguyện cam kết, thoả thuận miễn là không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội [6]. Vì vậy, nếu hai bên có thỏa thuận về việc chấm dứt bảo lưu quyền sở hữu và điều đó pháp luật cũng như đạo đức không cấm thì được pháp luật tôn trọng.
Một số kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về biện pháp bảo lưu quyền sở hữu
Phạm vi của biện pháp bảo lưu quyền sở hữu
Kiến nghị sửa đổi nội dung quy định này trong BLDS hiện hành theo hướng mở rộng phạm vi áp dụng bảo lưu quyền sở hữu, cụ thể cho phép hợp đồng trao đổi tài sản cũng được áp dụng BPBĐ này bởi vì ở phần “Phạm vi của biện pháp bảo lưu quyền sở hữu” việc quy định chỉ có hợp đồng mua bán tài sản mới được áp dụng biện pháp bảo lưu quyền sở hữu chưa bao quát được đủ các trường hợp vì ngoài hợp đồng mua bán tài sản – dạng hợp đồng đặc trưng có chuyển giao quyền sở hữu tài sản thì hợp đồng trao đổi tài sản cũng đáp ứng được hai điều kiện [7] để có thể áp dụng BPBĐ này.
Hình thức của biện pháp bảo lưu quyền sở hữu
Khi quy định về hình thức của biện pháp này, pháp luật chỉ quy định về việc phải lập thành văn bản ngoài ra không còn quy định nào khác sẽ gây ra những khó khăn khi áp dụng vì nó quá chung chung. Đặt trường hợp, hợp đồng mua bán thuộc đối tượng phải đăng ký hay công chứng, chứng thực thì liệu nội dung về bảo lưu quyền sở hữu nếu được lập thành văn bản riêng có phải tuân theo các quy định này thì mới phát sinh hiệu lực hay không. Vì thế, kiến nghị quy định cụ thể hơn về hình thức của biện pháp bảo lưu quyền sở hữu theo hướng quy định hình thức của thỏa thuận về bảo lưu quyền sở hữu sẽ phải tương thích với hình thức của hợp đồng mua bán có như thế mới tạo ra sự thống nhất trong các quy định của pháp luật.
Phạm vi bảo lưu quyền sở hữu
BLDS năm 2015 không quy định về phạm vi bảo lưu quyền sở hữu đối với tài sản là bảo lưu bao nhiêu, là một phần hay toàn bộ nhưng luật cũng không cấm vấn đề bảo lưu một phần đối với tài sản thế nên nếu các bên thỏa thuận về việc bảo lưu quyền sở hữu một phần thì không vi phạm pháp luật dân sự. Tuy nhiên, nếu thỏa thuận bảo lưu một phần, phần còn lại không bảo lưu thì làm thế nào để biết phần nào trong tổng thể tài sản ấy bảo lưu nếu hai bên không thỏa thuận cụ thể và nếu không xác định được thì thỏa thuận có vô hiệu không. Do đó đề xuất cơ quan hướng dẫn áp dụng pháp luật hoặc cơ quan ban hành pháp luật cụ thể giải thích bổ sung thêm về điều này.
Căn cứ chấm dứt biện pháp bảo lưu quyền sở hữu
BLDS hiện hành quy định ba căn cứ làm chấm dứt bảo lưu quyền sở hữu. Tuy nhiên, trên thực tế, bên cạnh ba trường hợp đã được quy định còn có những khả năng khác khiến cho việc bảo lưu quyền sở hữu không thể tiếp tục mà pháp luật chưa dự liệu. Có thể kể đến như: Hai bên thỏa thuận thay thế biện pháp bảo lưu quyền sở hữu bằng một BPBĐ khác; Tài sản là đối tượng của biện pháp bảo lưu quyền sở hữu không còn nữa; hoặc bị hủy bỏ. Nếu hai bên thỏa thuận sử dụng BPBĐ khác thay vì biện pháp bảo lưu quyền sở hữu thì việc bảo lưu quyền sở hữu đương nhiên chấm dứt. Bên mua phải trả lại tài sản cho bên bán, bên bán phải thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình đối với bên mua. Đối với trường hợp tài sản không còn thì cũng không thể tồn tại quyền sở hữu đối với tài sản đó nữa và vì thế kéo theo việc bảo lưu quyền sở hữu cũng chấm dứt. Từ những phân tích trên, kiến nghị bổ sung thêm các căn cứ kể trên vào các trường hợp chấm dứt bảo lưu quyền sở hữu.
[1] Khoản 1 Điều 3 Nghị định số 21/2021/NĐ-CP ngày 19 tháng 3 năm 2021 của Chính phủ quy định thi hành Bộ luật Dân sự về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ [2] Khoản 2 Điều 3 Nghị định số 21/2021/NĐ-CP ngày 19 tháng 3 năm 2021 của Chính phủ quy định thi hành Bộ luật Dân sự về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ [3] Khoản 2 Điều 431 BLDS năm 2015 [4] Điều 112 BLDS năm 2015 [5] Khoản 2 Điều 331 BLDS năm 2015 [6] Khoản 2, Điều 3 BLDS năm 2015 [7] Một là làm phát sinh nghĩa vụ của bên nhận chuyển giao quyền sở hữu (bởi lẽ tồn tại nghĩa vụ cần được bảo đảm thì mới cần đến BPBĐ); Hai là liên quan đến việc chuyển giao quyền sở hữu. |
HOÀNG THÙY LINH
Tòa án quân sự Quân khu 7
Sử dụng chứng cứ điện tử để chứng minh trong tố tụng hình sự