TRỰC THỨ 6

30/09/2022 04:24 | 1 năm trước

SÁNG

9. Hà Nội: Kế hoạch triển khai đề án về cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu

(LSVN) - Ngày 28/9, UBND thành phố đã ban hành Kế hoạch số 255/KH-UBND triển khai, thực hiện Đề án “Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2021-2025”.

Ảnh minh họa.

Theo đó, mục tiêu của kế hoạch là triển khai đồng bộ các giải pháp để xử lý nợ xấu, xử lý tài sản đảm bảo hỗ trợ quá trình cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng, nâng cao năng lực tài chính cho các tổ chức tín dụng trên địa bàn, phấn đấu đến năm 2025 các tổ chức tín dụng lành mạnh và phát triển bền vững.

Đồng thời, tăng cường công tác quản lý với hoạt động tiền tệ, ngân hàng, tạo cơ chế xử lý đồng bộ, hiệu quả giữa các sở, ngành.

Cụ thể, UBND thành phố yêu cầu Ngân hàng Nhà nước chi nhánh thành phố Hà Nội theo dõi tình hình, kết quả thực hiện đề án, báo cáo UBND thành phố, Ngân hàng Nhà nước các khó khăn, vướng mắc phát sinh; chỉ đạo, hướng dẫn các Quỹ Tín dụng nhân dân xây dựng, trình cấp có thẩm quyền phê duyệt phương án cơ cấu lại gắn với xử lý nợ xấu; phối hợp với các sở, ngành liên quan, chính quyền địa phương để tăng cường hoạt động giám sát.

UBND thành phố cũng yêu cầu các sở: Tài chính, Kế hoạch và Đầu tư, Tư pháp, Xây dựng, Thông tin và Truyền thông, Tài nguyên và Môi trường, cùng Công an thành phố, UBND các quận, huyện, thị xã… tạo điều kiện thuận lợi để các tổ chức tín dụng xử lý nợ xấu, nhằm thực hiện cơ cấu, hướng tới mục tiêu là triển khai tốt đề án.

DUY ANH

Một số bất cập và kiến nghị hoàn thiện về hình phạt tử hình theo pháp luật Việt Nam2. 

8.Những chính sách mới nổi bật có hiệu lực từ tháng 10/2022

(LSVN) - Tăng giá dịch vụ đăng kiểm ô tô; thu hồi tên miền với hệ thống thông tin xâm phạm an ninh quốc gia; miễn phí cấp và sử dụng tài khoản định danh điện tử; bãi bỏ các quy định về tính tỉ lệ nội địa hóa ôtô; người sử dụng lao động sẽ không còn được giảm mức đóng bảo hiểm thất nghiệp;… là những chính sách mới nổi bật có hiệu lực từ tháng 10/2022.

Giảm 20- 50% một số loại phí kinh doanh vận tải

Thông tư số 59/2022/TT-BTC của Bộ Tài chính ban hành quy định mức thu một số khoản phí, lệ phí, trong đó, giảm từ 20 - 50% một số loại phí hoạt động kinh doanh vận tải. Thông tư này có hiệu lực kể từ ngày 01/10 đến hết ngày 31/12/2022.

Theo đó, Thông tư này quy định giảm từ 20 - 50% một số loại phí hoạt động kinh doanh vận tải như: 

- Giảm 20% phí trọng tải tàu, thuyền hoạt động hàng hải nội địa; phí bảo đảm hàng hải hoạt động hàng hải nội địa; lệ phí ra, vào cảng biển hoạt động hàng hải nội địa. 

- Giảm 20% mức thu đối với 07/10 nội dung thu phí trong 02 khoản phí thẩm định cấp chứng chỉ, giấy phép, giấy chứng nhận trong hoạt động hàng không dân dụng; cấp giấy phép ra vào khu vực hạn chế tại cảng hàng không, sân bay; phí đăng ký giao dịch bảo đảm đối với tàu bay.

- Giảm 50% phí sử dụng kết cấu hạ tầng đường sắt. 

- Giảm 50% phí trình báo đường thủy nội địa và lệ phí ra, vào cảng bến thủy nội địa.

Theo ước tính, việc giảm phí, lệ phí giảm thu ngân sách nhà nước khoảng 55 tỉ đồng. Theo Bộ Tài chính, việc ban hành Thông tư này nhằm góp phần hỗ trợ cho hoạt động kinh doanh vận tải trước những khó khăn do Covid-19 cũng như biến động của giá nhiên liệu trong thời gian qua.

Tăng giá dịch vụ đăng kiểm ô tô từ 08/10/2022

Thông tư số 55/2022/TT-BTC của Bộ Tài chính ban hành sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 238/2016/TT-BTC quy định về giá dịch vụ kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường đối với xe cơ giới, thiết bị và xe máy chuyên dùng đang lưu hành; đánh giá, hiệu chuẩn thiết bị kiểm tra xe cơ giới.

Thông tư số 55/2022/TT-BTC quy định biểu giá dịch vụ đăng kiểm xe ô tô các loại được điều chỉnh tăng 10.000 đồng/xe so với hiện nay. Cụ thể, xe ô tô tải có khối lượng hàng chuyên chở cho phép tham gia giao thông trên 20 tấn, xe ô tô đầu kéo có khối lượng kéo theo cho phép tham gia giao thông trên 20 tấn và các loại xe ô tô chuyên dùng: Mức giá tăng từ 560.000 đồng/xe lên 570.000 đồng/xe.

Máy kéo, xe chở hàng bốn bánh có gắn động cơ, xe chở người bốn bánh có gắn động cơ và các loại phương tiện vận chuyển tương tự; rơ moóc, sơ mi rơ moóc: tăng từ 180.000 đồng/xe lên 190.000 đồng/xe.

Xe ô tô chở người trên 40 ghế (kể cả lái xe), xe buýt: tăng từ 350.000 đồng/xe lên 360.000 đồng/xe…

Xe ô tô chở người từ 10 ghế đến 24 ghế (kể cả lái xe), mức giá sẽ là 290.000 đồng/xe thay cho mức 280.000 đồng/xe hiện nay.

Xe ô tô chở người dưới 10 chỗ ngồi, xe ô tô cứu thương, mức giá sẽ là 250.000 đồng/xe thay cho mức 240.000 đồng/xe hiện nay.

Bộ Tài chính cũng quyết định thay đổi giá dịch vụ kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường lần đầu đối với thiết bị, xe máy chuyên dùng đang lưu hành đối với: Máy ủi công suất đến 100 mã lực (tăng từ 340.000 đồng/chiếc lên 350.000 đồng/chiếc); Máy san công suất trên 130 mã lực (tăng từ 530.000 đồng/chiếc lên 540.000 đồng/chiếc); Xe kéo, máy kéo nông nghiệp, lâm nghiệp tham gia giao thông (tăng từ 390.000 đồng/chiếc lên 400.000 đồng/chiếc)…

Thông tư số 55/2022/TT-BTC có hiệu lực thi hành từ 08/10/2022.

Từ ngày 01/10, thu hồi tên miền với hệ thống thông tin xâm phạm an ninh quốc gia

Nghị định 53/2022/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Luật An ninh mạng sẽ chính thức có hiệu lực từ ngày 01/10/2022. Theo đó, từ ngày 01/10, hệ thống thông tin đang được sử dụng vào mục đích xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội sẽ bị đình chỉ, tạm đình chỉ hoặc yêu cầu ngừng hoạt động của hệ thống thông tin, thu hồi tên miền.

Cụ thể, Nghị định quy định trình tự, thủ tục thực hiện biện pháp đình chỉ, tạm đình chỉ hoặc yêu cầu ngừng hoạt động của hệ thống thông tin, thu hồi tên miền.

Theo đó, 2 trường hợp áp dụng gồm:

- Có tài liệu chứng minh hoạt động của hệ thống thông tin là vi phạm pháp luật về an ninh quốc gia, an ninh mạng;

- Hệ thống thông tin đang được sử dụng vào mục đích xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội.

Bộ trưởng Bộ Công an trực tiếp quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ hoặc yêu cầu ngừng hoạt động của hệ thống thông tin, tạm ngừng, thu hồi tên miền có hoạt động vi phạm pháp luật về an ninh mạng. Cục trưởng Cục An ninh mạng và phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao thuộc Bộ Công an có trách nhiệm thực hiện quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ hoặc yêu cầu ngừng hoạt động của hệ thống thông tin, tạm ngừng, thu hồi tên miền.

Nghị định số 53/2022/NĐ-CP cũng quy định trình tự, thủ tục thực hiện biện pháp yêu cầu xóa bỏ thông tin trái pháp luật hoặc thông tin sai sự thật trên không gian mạng xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.

Miễn phí cấp và sử dụng tài khoản định danh điện tử

Chủ thể danh tính điện tử là cơ quan, tổ chức, công dân Việt Nam không phải thanh toán chi phí đăng ký cấp tài khoản định danh điện tử và chi phí sử dụng tài khoản định danh điện tử do hệ thống định danh và xác thực điện tử tạo lập.

Đây là nội dung tại Nghị định số 59/2022/NĐ-CP quy định về định danh và xác thực điện tử, được Chính phủ ban hành ngày 05/9/2022 và có hiệu lực thi hành từ ngày 20/10/2022.

Nghị định này quy định về danh tính điện tử, định danh điện tử, xác thực điện tử; dịch vụ xác thực điện tử; quyền, nghĩa vụ của bên sử dụng dịch vụ xác thực điện tử; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan.

Danh tính điện tử công dân Việt Nam gồm: Thông tin cá nhân: Số định danh cá nhân; họ, chữ đệm và tên; ngày, tháng, năm sinh; giới tính; Thông tin sinh trắc học: Ảnh chân dung; vân tay.

Danh tính điện tử người nước ngoài bao gồm: Thông tin cá nhân: Số định danh của người nước ngoài; họ, chữ đệm và tên; ngày, tháng, năm sinh; giới tính; quốc tịch; số, ký hiệu, ngày, tháng, năm, loại giấy tờ và nơi cấp hộ chiếu hoặc giấy tờ có giá trị đi lại quốc tế; thông tin sinh trắc học: Ảnh chân dung; vân tay.

Từ 01/10/2022, bãi bỏ các quy định về tính tỉ lệ nội địa hóa ôtô

Ngày 10/8/2022, Bộ Khoa học và Công nghệ đã ban hành Thông tư số 11/2022/TT-BKHCN về việc bãi bỏ các văn bản quy định về phương pháp xác định tỉ lệ nội địa hóa đối với ô tô.

Bộ Khoa học và Công nghệ bãi bỏ toàn bộ các văn bản quy phạm pháp luật sau đây: Quyết định số 28/2004/QĐ-BKHCN ngày 01/10/2004 về phương pháp xác định tỉ lệ nội địa hóa đối với ôtô; Quyết định 05/2005/QĐ-BKHCN ngày 11/5/2005 về việc sửa đổi, bổ sung Quyết định số 28/2004/QĐ-BKHCN ngày 01/10/2004 về phương pháp xác định tỉ lệ nội địa hóa đối với ôtô; Thông tư số 05/2012/TT-BKHCN ngày 12/3/2012 về việc sửa đổi, bổ sung Điều 1 Quyết định 05/2005/QĐ-BKHCN ngày 11/5/2005 về việc sửa đổi, bổ sung Quyết định 28/2004/QĐ-BKHCN ngày 1/10/2004 về phương pháp xác định tỉ lệ nội địa hóa đối với ôtô.

Thông tư số 11/2022/TT-BKHCN có hiệu lực từ ngày 01/10/2022.

Từ 01/10/2022, người sử dụng lao động sẽ không còn được giảm mức đóng bảo hiểm thất nghiệp

Ngày 24/9/2021, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 116/NQ-CP trong đó hỗ trợ người sử dụng lao động bị ảnh hưởng bởi đại dịch Covid-19 từ Quỹ bảo hiểm thất nghiệp. Theo đó, người sử dụng lao động được giảm mức đóng từ 1% xuống bằng 0% quỹ tiền lương tháng của những người lao động thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm thất nghiệp.

Trong đó, đối tượng được giảm 1% mức đóng bảo hiểm thất nghiệp (từ ngày 01/10/2021 đến ngày 30/9/2022) là người sử dụng lao động đang tham gia bảo hiểm thất nghiệp trước ngày 01/10/2021.

Người sử dụng lao động nêu trên không bao gồm các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và đơn vị sự nghiệp công lập do ngân sách nhà nước bảo đảm chi thường xuyên.

Như vậy, từ ngày 01/10/2022, người sử dụng lao động sẽ không còn được giảm mức đóng bảo hiểm thất nghiệp. Mức đóng bảo hiểm thất nghiệp sẽ quay về mức 1% quỹ tiền lương tháng của những người lao động thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm thất nghiệp.

Cách xếp lương viên chức ngành thông tin và truyền thông

Từ ngày 10/10/2022, Thông tư số 13/2022/TT-BTTTT chính thức có hiệu lực sẽ áp dụng cách xếp lương của viên chức biên tập viên, phóng viên, biên dịch viên, đạo diễn truyền hình thuộc chuyên ngành thông tin và truyền thông.

Theo khoản 1 Điều 17 Thông tư 13/2022/TT-BTTTT, các chức danh nghề nghiệp viên chức thuộc chuyên ngành thông tin và truyền thông được áp dụng Bảng lương chuyên môn, nghiệp vụ đối với cán bộ, viên chức trong các đơn vị sự nghiệp của Nhà nước (Bảng 3) ban hành kèm theo Nghị định 204/2004/NĐ-CP, như sau:

Chức danh nghề nghiệp biên tập viên hạng I, phóng viên hạng I, biên dịch viên hạng I, đạo diễn truyền hình hạng I được áp dụng hệ số lương của viên chức loại A3, nhóm 1 (A3.1) từ hệ số lương 6,20 đến hệ số lương 8,00.

Chức danh nghề nghiệp biên tập viên hạng II, phóng viên hạng II, biên dịch viên hạng II, đạo diễn truyền hình hạng II được áp dụng hệ số lương của viên chức loại A2, nhóm 1 (A2.1) từ hệ số lương 4,40 đến hệ số lương 6,78.

Chức danh nghề nghiệp biên tập viên hạng III, phóng viên hạng III, biên dịch viên hạng III, đạo diễn truyền hình hạng III được áp dụng hệ số lương của viên chức loại A1 từ hệ số lương 2,34 đến hệ số lương 4,98.

Việc xếp lương đối với viên chức từ chức danh nghề nghiệp hiện giữ sang chức danh nghề nghiệp viên chức mới thuộc ngành thông tin và truyền thông được thực hiện theo quy định tại khoản 2 Mục II Thông tư 02/2007/TT-BNV.

HỒNG HẠNH

Một số bất cập và kiến nghị hoàn thiện về hình phạt tử hình theo pháp luật Việt Nam

7.  Một số điểm mới của Điều lệ Liên đoàn Luật sư Việt Nam (nhiệm kỳ 2021-2026)

(LSVN) _ Điều lệ Liên đoàn Luật sư Việt Nam được Đại hội đại biểu Luật sư toàn quốc lần thứ III (nhiệm kỳ 2021-2026) thông qua tại phiên họp ngày 26/12/2021 (gọi tắt là Điều lệ LĐLSVN năm 2022) và ngày 19/7/2022 đã được Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 856/QĐ-TTg phê duyệt.

Điều lệ LĐLSVN năm 2022 gồm 8 chương, 53 Điều. Chương I - Những quy định chung); Chương II - Cơ cấu tổ chức của Liên đoàn Luật sư Việt Nam; Chương III - Đoàn Luật sư; Chương IV - Luật sư; Chương V - Tài chính và tài sản; Chương VI - Khen thưởng, kỷ luật, giải quyết khiếu nại, tố cáo; Chương VII - Quan hệ của Liên đoàn Luật sư Việt Nam, Đoàn Luật sư với các cơ quan nhà nước và các tổ chức trong nước, ngoài nước; Chương VIII - Điều khoản thi hành.

So với Điều lệ cũ (nhiệm kỳ 2014-2019) được phê duyệt bởi Quyết định số 1573/QĐ-BTP ngày 28/8/2015 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Điều lệ LĐLSVN năm 2022 tăng thêm 3 điều và có một số nội dung mới như sau:

Thứ nhất, Điều 9 của Điều lệ cũ (Chủ tịch, Phó Chủ tịch Liên đoàn Luật sư Việt Nam) được tách thành 3 điều (Điều 9, 10, 11) quy định rõ hơn về nhiệm vụ, quyền hạn của Thường trực Liên đoàn Luật sư Việt Nam, của Chủ tịch, các Phó Chủ tịch Liên đoàn Luật sư Việt Nam. Điều 9 Điều lệ mới quy định: Thường trực Liên đoàn Luật sư Việt Nam có nhiệm vụ điều hành hoạt động thường xuyên của Liên đoàn giữa các kỳ họp của Ban Thường vụ Liên đoàn; thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Liên đoàn Luật sư Việt Nam; quyết định và thực hiện quan hệ với các bộ, ngành, các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và quan hệ hợp tác quốc tế. Thường trực Liên đoàn gồm Chủ tịch và các Phó Chủ tịch, trong đó Chủ tịch và từ 01 đến 02 Phó Chủ tịch làm việc chuyên trách, thường xuyên, toàn thời gian hành chính ở Liên đoàn. Những quy định về tiêu chuẩn, nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch và Phó Chủ tịch Liên đoàn Luật sư Việt Nam được cấu tạo riêng thành từng điều (Điều 10 - Chủ tịch Liên đoàn Luật sư Việt Nam; Điều 11 - Phó Chủ tịch Liên đoàn Luật sư Việt Nam).

Thứ hai, Điều 32 (Điều 30 Điều lệ cũ) quy định về việc “rút tên khỏi danh sách Luật sư của Đoàn Luật sư, chuyển Đoàn Luật sư” bổ sung thêm điểm đ vào khoản 2. Theo đó, ngoài những trường hợp quy định tại các điểm a, b, c, d Điều 32 (như Điều 30 Điều lệ cũ), Luật sư bị từ chối rút tên khỏi danh sách Luật sư của Đoàn Luật sư nếu vi phạm nghĩa vụ đóng phí thành viên Liên đoàn Luật sư Việt Nam, phí thành viên Đoàn Luật sư.

Thứ ba, về phí thành viên, nếu như ở Điều lệ cũ, tại Điều 37 quy định Ban Chủ nhiệm Đoàn Luật sư có trách nhiệm thu phí thành viên của các Luật sư thành viên của Đoàn mình và trích nộp cho Liên đoàn, thì theo Điều lệ mới quy định tại Điều 39, phí thành viên được tách ra làm 2 loại: phí thành viên Liên đoàn và phí thành viên Đoàn Luật sư. Luật sư đóng phí thành viên Liên đoàn bằng hình thức chuyển khoản vào tài khoản của Liên đoàn Luật sư Việt Nam hoặc nộp trực tiếp tại Văn phòng Liên đoàn Luật sư Việt Nam hoặc Cơ quan đại diện của Liên đoàn Luật sư Việt Nam tại Thành phố Hồ Chí Minh; nộp phí thành viên Đoàn Luật sư bằng hình thức chuyển khoản vào tài khoản của Đoàn Luật sư mà mình là thành viên hoặc nộp trực tiếp tại Văn phòng Đoàn Luật sư.

Mức phí thành viên Liên đoàn, phí thành viên Đoàn Luật sư; các trường hợp miễn, giảm phí thành viên Liên đoàn, phí thành viên Đoàn Luật sư do Hội đồng Luật sư toàn quốc quy định.

Ban chủ nhiệm, Chủ nhiệm Đoàn Luật sư có trách nhiệm rà soát, đôn đốc các Luật sư thành viên Đoàn mình đóng phí thành viên Liên đoàn và phí thành viên Đoàn Luật sư.

Định kỳ 06 tháng, Liên đoàn Luật sư Việt Nam phối hợp với Đoàn Luật sư thông báo công khai trên Trang thông tin điện tử của Liên đoàn Luật sư Việt Nam, Tạp chí Luật sư Việt Nam và Trang thông tin điện tử của Đoàn Luật sư danh sách Luật sư đã nộp phí và Luật sư chưa nộp phí thành viên Liên đoàn Luật sư Việt Nam và phí thành viên Đoàn Luật sư.

Định kỳ 06 tháng, Ban chủ nhiệm Đoàn Luật sư tổng hợp danh sách các Luật sư thành viên chưa đóng phí thành viên Liên đoàn, phí thành viên Đoàn Luật sư và thông báo cho Luật sư thành viên; gửi Liên đoàn Luật sư Việt Nam danh sách các Luật sư chưa đóng phí thành viên Liên đoàn và phí thành viên Đoàn Luật sư từ 06 tháng trở lên chậm nhất vào ngày 31 tháng 01 và 31 tháng 7 hằng năm.

Luật sư không đóng phí thành viên Liên đoàn Luật sư Việt Nam hoặc phí thành viên Đoàn Luật sư thì bị xử lý theo quy định sau:

a) Quá 06 tháng đến dưới 12 tháng thì Liên đoàn Luật sư Việt Nam nhắc nhở trên Trang thông tin điện tử của Liên đoàn, Đoàn Luật sư nhắc nhở trên trang thông tin điện tử của Đoàn Luật sư, nhắc nhở bằng văn bản lần thứ nhất hoặc bằng hình thức khác;

b) Từ 12 tháng đến dưới 18 tháng thì Liên đoàn Luật sư Việt Nam nhắc nhở trên Trang thông tin điện tử của Liên đoàn, Đoàn Luật sư nhắc nhở trên trang thông tin điện tử của Đoàn Luật sư, nhắc nhở bằng văn bản lần thứ hai hoặc bằng hình thức khác;

c) Từ 18 tháng trở lên thì bị xử lý kỷ luật bằng hình thức xóa tên khỏi danh sách Luật sư của Liên đoàn Luật sư Việt Nam, Đoàn Luật sư.

Thứ tư, Điều 51 của Điều lệ LĐLSVN năm 2022 là điều mới được bổ sung, quy định về quan hệ giữa Liên đoàn Luật sư Việt Nam, Đoàn Luật sư với tổ chức hành nghề Luật sư. Theo đó, Liên đoàn Luật sư Việt Nam, Đoàn Luật sư phối hợp với cơ quan nhà nước có thẩm quyền tạo điều kiện thuận lợi cho Luật sư hoạt động hành nghề trong tổ chức hành nghề Luật sư; giám sát việc tuân thủ pháp luật của tổ chức hành nghề Luật sư; thực hiện việc tôn vinh, khen thưởng đối với tổ chức hành nghề Luật sư có thành tích xuất sắc trong hoạt động hành nghề Luật sư.

Thứ năm, về xử lý kỷ luật đối với Luật sư, Điều lệ LĐLSVN năm 2022 quy định rõ hơn về hình thức kỷ luật xóa tên khỏi danh sách Luật sư của Đoàn Luật sư. Cụ thể, khoản 3 Điều 42 quy định Luật sư thuộc một trong các trường hợp sau thì đương nhiên bị Ban chủ nhiệm Đoàn Luật sư xử lý kỷ luật bằng hình thức xóa tên khỏi danh sách Luật sư của Đoàn Luật sư mà không phải theo thủ tục xử lý kỷ luật Luật sư quy định tại khoản 5 Điều này:

a) Bị thu hồi chứng chỉ hành nghề Luật sư trong các trường hợp quy định tại các điểm h và i khoản 1 Điều 18 của Luật Luật sư;

b) 18 tháng không đóng phí thành viên Liên đoàn Luật sư Việt Nam hoặc phí thành viên Đoàn Luật sư.

Như vậy, theo quy định của Điều lệ mới, khi Luật sư thuộc một trong hai trường hợp nêu trên thì đương nhiên sẽ bị Đoàn Luật sư áp dụng hình thức kỷ luật “xóa tên khỏi danh sách Luật sư của Đoàn Luật sư” mà không phải qua thủ tục xem xét, quyết định của Hội đồng Luật sư toàn quốc như trước đây. Quy định này nhằm nâng cao vai trò và trách nhiệm của Ban chủ nhiệm Đoàn Luật sư trong công tác quản lý Luật sư thành viên, đồng thời đơn giản hóa thủ tục và rút ngắn thời gian xử lý kỷ luật đối với Luật sư.

Ngoài ra, Điều 42 về xử lý kỷ luật đối với Luật sư cũng được bổ sung thêm một nội dung mới, đó là trường hợp Luật sư bị xem xét kỷ luật là thành viên ban chủ nhiệm, thành viên hội đồng khen thưởng, kỷ luật của Đoàn Luật sư thì không được tham gia với tư cách là thành viên ban chủ nhiệm, thành viên hội đồng khen thưởng, kỷ luật của Đoàn Luật sư khi xem xét kỷ luật đối với mình.     

THY NGỌC

Cảnh báo 8 thủ đoạn lừa đảo chiếm đoạt tài sản qua mạng 

6.  Dự thảo Luật Tài nguyên nước: Sửa đổi 55 điều, bổ sung mới 13 điều, bãi bỏ 5 điều

(LSVN) - Bộ Tài nguyên và Môi trường đang dự thảo Luật Tài nguyên nước (sửa đổi). Theo đó, Dự thảo Luật Tài nguyên nước (sửa đổi) gồm 87 điều và được bố cục thành 10 chương. So với Luật Tài nguyên nước năm 2012, dự thảo Luật không tăng về số chương (trong đó giữ nguyên 19 điều, sửa đổi, bổ sung 55 điều, bổ sung mới 13 điều) và bãi bỏ 05 điều.

Ảnh minh họa.

Bên cạnh những quy định chung, dự thảo nêu rõ những quy định cụ thể về: Điều tra cơ bản, chiến lược, quy hoạch tài nguyên nước; bảo vệ tài nguyên nước; điều hòa, phân phối và Khai thác, sử dụng tài nguyên nước; phòng, chống và khắc phục hậu quả tác hại do nước gây ra; công cụ kinh tế và nguồn lực cho bảo vệ và phát triển nguồn nước; quan hệ quốc tề về tài nguyên nước…

Các chương được sắp xếp, bố cục lại cụ thể như sau:

Chương I. Quy định chung, gồm 11 điều (từ Điều 1 đến Điều 11).

Chương II. Điều tra cơ bản, chiến lược, quy hoạch tài nguyên nước, gồm 13 điều (từ Điều 12 đến Điều 24).

Chương III. Bảo vệ tài nguyên nước, gồm 15 điều (từ Điều 25 đến Điều 39).

Chương IV. Điều hòa, phân phối và Khai thác, sử dụng tài nguyên nước, gồm 23 điều (từ Điều 40 đến Điều 62).

Chương V. Phòng, chống và khắc phục hậu quả tác hại do nước gây ra, gồm 6 điều (từ Điều 63 đến Điều 68).

Chương VI. Công cụ kinh tế và nguồn lực cho bảo vệ và phát triển nguồn nước, gồm 6 điều (từ Điều 69 đến Điều 74).

Chương VII. Quan hệ quốc tề về tài nguyên nước, gồm 4 điều (từ Điều 75 đến Điều 78).

Chương VIII. Trách nhiệm quản lý tài nguyên nước, gồm 5 điều (từ Điều 79 đến Điều 82).

Chương IX. Thanh tra chuyên ngành tài nguyên nước, giải quyết tranh chấp về tài nguyên nước, gồm 2 điều (từ Điều 83 đến Điều 84).

Chương X. Điều khoản thi hành, gồm 4 điều (từ Điều 85 đến Điều 87).

Theo Bộ Tài nguyên và Môi trường cho biết, Luật Tài nguyên nước năm 2012 đã góp phần tạo chuyển biến tích cực trong nhận thức, hành động của toàn xã hội về bảo vệ, khai thác sử dụng tài nguyên nước; tài nguyên nước được quản lý, sử dụng hiệu quả, bền vững hơn, mang lại nguồn thu cho ngân sách Nhà nước.

Tuy nhiên, sau hơn 9 năm thi hành, do các mối quan hệ kinh tế, xã hội có nhiều thay đổi, bên cạnh đó nhà nước đã ban hành nhiều chính sách, pháp luật liên quan đến quản lý, bảo vệ, khai thác, sử dụng tài nguyên nước nên Luật Tài nguyên nước đã bộc lộ một số tồn tại, hạn chế.

Vì vậy, Bộ Tài nguyên và Môi trường cho rằng, việc xây dựng Luật Tài nguyên nước (sửa đổi) không chỉ nhằm khắc phục những tồn tại, bất cập đặt ra trong quá trình thi hành Luật Tài nguyên nước mà còn nhằm thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về hoàn thiện thể chế về tài nguyên nước, đảm bảo phù hợp với các văn bản trong hệ thống pháp luật, đồng thời, bổ sung các chính sách mới để điều chỉnh một số nội dung phát sinh trong thực tiễn là cần thiết nhằm đáp ứng yêu cầu quản lý và sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên cho phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, quyền, lợi ích của người dân, doanh nghiệp; xây dựng hệ thống chính sách pháp luật đồng bộ, tổng hợp, thống nhất về tài nguyên nước, đảm bảo an ninh tài nguyên nước.

DUY ANH

Một số điểm mới trong dự thảo Luật Tài nguyên nước (sửa đổi)

5.  Cảnh giác với những chiêu trò lừa tiền trên mạng tại Đà Nẵng

(LSVN) - Công an thành phố Đà Nẵng đề nghị người dân cảnh giác và tuyên truyền đến người thân, bạn bè về thủ đoạn trên, tránh mắc bẫy của đối tượng xấu. Khi đăng ký việc làm như làm cộng tác viên cho các công ty, doanh nghiệp, đơn vị cung ứng hàng hóa, dịch vụ, người dân cần kiểm tra rõ các thông tin về hàng hóa và đơn vị cung cấp thông qua nhiều nguồn khác nhau để kiểm chứng tính chính xác...

Ảnh minh họa.

Công an thành phố Đà Nẵng đang điều tra nhiều vụ việc nạn nhân bị lừa đảo khi tìm việc trên mạng hoặc bị đối tượng giả danh công an, kiểm sát chiếm đoạt số tiền từ vài trăm triệu đến cả tỉ đồng.

Ngày 20/9, Công an quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng thông tin, đang điều tra, xác minh vụ lừa đảo chiếm đoạt tài sản qua mạng xảy ra trên địa bàn. Nạn nhân là anh P.A.T. (sinh năm 1987, trú phường An Khê), đã bị các đối tượng sử dụng công nghệ cao lừa đảo qua mạng với số tiền gần 200 triệu đồng.

Theo nội dung đơn trình báo, vào lúc 8h ngày 17/9, anh T. có nhận tin nhắn quảng cáo về việc làm nên có liên hệ với số điện thoại +04927226094. Ngay sau đó, anh T. được "hướng dẫn viên" bày cách thực hiện nhiệm vụ nhận tiền và có liên kết với số tài khoản 56010000196062 tại Ngân hàng BIDV.

Qua nhiều lần giao dịch, anh T. đã chuyển tiền vào số tài khoản 9382693362 Ngân hàng Vietcombank với tổng số tiến gần 200 triệu đồng. Đến lúc đã chuyển đi số tiền lớn như vậy mà vẫn chưa được nhận vào làm, anh T. mới nhận ra mình bị lừa, nên đến công an phường trình báo. Vụ việc được chuyển lên Công an quận Thanh Khê xử lý, điều tra.

Trước đó, hồi cuối tháng 8/2022, Công an quận Thanh Khê đã tiếp nhận trình báo của chị N.T.H.T. (sinh năm 1983, trú phường Thanh Khê Tây) bị các đối tượng sử dụng công nghệ cao lừa đảo qua internet mất hơn 1 tỉ đồng.

Cụ thể, vào chiều 04/8, chị T. nhận được điện thoại từ số 02471098935 với nội dung thông báo chị có liên quan đến vụ tai nạn giao thông tại ngã tư Điện Biên Phủ giao Nguyễn Tri Phương. Khi chị T. trả lời không biết gì đến vụ việc trên thì được thông báo thông tin cá nhân của chị đã bị lộ nên sẽ được chuyển máy đến Công an thành phố Đà Nẵng để được hỗ trợ.

Sau khi chuyển máy có một người tự xưng là cán bộ Công an thành phố Đà Nẵng gọi thông báo chị T. có liên quan đến vụ án mua bán trái phép chất ma túy và hướng dẫn chị tải phần mềm "Ứng dụng bảo mật" về để khai báo. Chị T. làm theo hướng dẫn và điền thông tin cá nhân, tài khoản ngân hàng trên phần mềm "Ứng dụng bảo mật". Sau khi chị T. điền thông tin thì đến khoảng từ 17h17 đến 20h20 cùng ngày, tài khoản ngân hàng của chị T. bị trừ 7 lần với số tiền tổng cộng là 1.042.002.000 đồng.

Thực tế các vụ việc cho thấy, các đối tượng lợi dụng nhu cầu mua sắm và tìm việc làm trên mạng để giăng bẫy "con mồi", sau đó chiếm đoạt tài sản. Đây là hình thức lừa đảo rất tinh vi, ít để lại dấu vết do tội phạm sử dụng công nghệ cao, khiến cho công tác điều tra phát hiện, ngăn chặn gặp không ít khó khăn.

Vì vậy, người dân cần hết sức cảnh giác trước những thủ đoạn lừa đảo qua mạng tinh vi như thế này. Khi gặp những trường hợp tương tự như thế này thì không làm theo bất kỳ yêu cầu nào của các đối tượng, sau đó cần đến ngay cơ quan Công an gần nhất để trình báo, vừa bảo vệ tài sản của bản thân, vừa giúp lực lượng chức năng kịp thời đấu tranh, bắt giữ các đối tượng lừa đảo này.

Công an thành phố Đà Nẵng đề nghị người dân cảnh giác và tuyên truyền đến người thân, bạn bè về thủ đoạn trên, tránh mắc bẫy của đối tượng xấu. Khi đăng ký việc làm như làm cộng tác viên cho các công ty, doanh nghiệp, đơn vị cung ứng hàng hóa, dịch vụ, người dân cần kiểm tra rõ các thông tin về hàng hóa và đơn vị cung cấp thông qua nhiều nguồn khác nhau để kiểm chứng tính chính xác...

Người dân cũng cần lưu ý, khi cơ quan Công an, Viện Kiểm sát, các cơ quan chức năng khác cần làm việc với người dân, sẽ có giấy mời, giấy triệu tập để trực tiếp làm việc và không làm việc qua điện thoại.

PV

Một số vấn đề về nghị án được quy định tại Điều 326 BLTTHS

4. Đề xuất sửa đổi quy định chi tiết một số điều của Luật Lý lịch tư pháp

(LSVN) - Bộ Tư pháp đang dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 111/2010/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Lý lịch tư pháp nhằm phù hợp với các quy định của văn bản hiện hành có liên quan; đồng thời để khắc phục những khó khăn, vướng mắc phát sinh trong quá trình thực hiện Nghị định số 111/2010/NĐ-CP thời gian qua; hoàn thiện khuôn khổ pháp luật về ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác Lý lịch tư pháp nhằm hướng tới phát triển Chính phủ số hiện nay.

Ảnh minh họa.

Theo quy định Luật Phí và lệ phí năm 2015, dự thảo Nghị định đã sửa đổi quy định về việc giao Bộ trưởng Bộ Tài chính có thẩm quyền quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng phí cung cấp thông tin Lý lịch tư pháp.

Để bảo đảm thực hiện quy định về việc điện tử hóa kết quả giải quyết thủ tục hành chính, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức, dự thảo đã bổ sung quy định về mẫu Phiếu Lý lịch tư pháp điện tử theo hướng giao Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định, hướng dẫn về mẫu Phiếu Lý lịch tư pháp điện tử.

Nhằm tháo gỡ khó khăn cho công tác lưu trữ hồ sơ cấp Phiếu Lý lịch tư pháp của địa phương và phù hợp với thực tiễn hiện nay trong việc số hóa giấy tờ, hồ sơ yêu cầu giải quyết thủ tục hành chính, dự thảo Nghị định đã bổ sung quy định về hồ sơ cấp Phiếu Lý lịch tư pháp điện tử; giá trị của hồ sơ cấp Phiếu Lý lịch tư pháp điện tử; thời hạn lưu trữ hồ sơ cấp Phiếu Lý lịch tư pháp bằng giấy và hồ sơ cấp Phiếu Lý lịch tư pháp điện tử.

Đối với trường hợp người bị kết án đã chấp hành xong hình phạt chính, hình phạt bổ sung và các quyết định của bản án, đã đủ thời gian để đương nhiên được xóa án tích, dự thảo Nghị định đã sửa đổi theo hướng cơ quan Viện kiểm sát, Tòa án, Công an, Quốc phòng... là cơ quan phối hợp tra cứu, xác minh với Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia, Sở Tư pháp về việc người đó có hành vi phạm tội mới hay không.

Trên cơ sở kết quả tra cứu, xác minh thông tin, Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia, Sở Tư pháp thực hiện cập nhật vào Lý lịch tư pháp của người bị kết án "đã được xóa án tích" hoặc "có án tích" theo đúng quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Thực hiện chủ trương về việc tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong cung cấp, tiếp nhận thông tin để xây dựng cơ sở dữ liệu Lý lịch tư pháp tại Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia, Sở Tư pháp, dự thảo Nghị định đã chỉnh lý theo hướng bổ sung dữ liệu Lý lịch tư pháp điện tử bao gồm cả thông tin lý lịch tư pháp được trao đổi, cung cấp, tiếp nhận, xử lý và lưu trữ dưới dạng điện tử.

Dự thảo Nghị định quy định cụ thể nơi tra cứu đối với các trường hợp tại khoản 3 Điều 24 Nghị định số 111/2010/NĐ-CP là Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia và Sở Tư pháp nơi thực hiện cấp Phiếu Lý lịch tư pháp.

Đồng thời, đảm bảo độ chính xác khi cấp Phiếu Lý lịch tư pháp cũng như giảm thời gian cấp Phiếu Lý lịch tư pháp, phù hợp với tiến trình cải cách hành chính hiện nay, dự thảo Nghị định đã sửa đổi Điều 25 Nghị định số 111/2010/NĐ-CP về quy trình, trách nhiệm tra cứu, xác minh thông tin Lý lịch tư pháp theo hướng Sở Tư pháp gửi hồ sơ yêu cầu cấp Phiếu Lý lịch tư pháp dưới dạng điện tử tới 03 cơ quan: Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia, cơ quan hồ sơ nghiệp vụ Bộ Công an và Phòng Hồ sơ nghiệp vụ Công an tỉnh để tra cứu, xác minh thông tin. Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia có nhiệm vụ tổng hợp với thông tin tra cứu trong Cơ sở dữ liệu Lý lịch tư pháp để trả kết quả cho Sở Tư pháp.

HÀ ANH

Một số vấn đề về nghị án được quy định tại Điều 326 BLTTHS

3. Dự thảo quy hoạch tổng thể năng lượng quốc gia 2021-2030, tầm nhìn 2050

(LSVN) - Bộ Công thương đang lấy ý kiến của nhân dân đối với dự thảo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch tổng thể về năng lượng quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 (Quy hoạch).

Ảnh minh họa.

Mục tiêu chung của Quy hoạch là bảo đảm vững chắc an ninh năng lượng quốc gia; cung cấp đầy đủ năng lượng ổn định, có chất lượng cao với giá cả hợp lý cho phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững, bảo đảm quốc phòng, an ninh, nâng cao đời sống của nhân dân, góp phần bảo vệ môi trường sinh thái. Tiến hành chuyển đổi năng lượng góp phần quan trọng đáp ứng mục tiêu phát thải ròng bằng "0" vào năm 2050.

Ngành năng lượng phát triển hài hoà giữa các phân ngành với hạ tầng đồng bộ và thông minh, đạt trình độ tiên tiến của khu vực ASEAN. Xây dựng thị trường năng lượng cạnh tranh, minh bạch, hiệu quả, phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên năng lượng trong nước kết hợp với xuất, nhập khẩu năng lượng hợp lý; triệt để thực hành tiết kiệm và sử dụng hiệu quả năng lượng. Chủ động sản xuất được một số thiết bị chính trong các phân ngành năng lượng; nâng cấp, xây dựng lưới điện truyền tải, phân phối điện tiên tiến, hiện đại.

Quy hoạch cũng đặt ra các mục tiêu cụ thể, nhằm đáp ứng nhu cầu năng lượng cho nền kinh tế ở 6,6%/năm ở kịch bản trung bình và 7,45%/năm ở kịch bản cao trong giai đoạn 2021-2030 và 5,6%/năm ở kịch bản trung bình và 6,2%/năm ở kịch bản cao giai đoạn 2031-2050, theo đó:

- Tổng cung cấp năng lượng sơ cấp 155-165 triệu tấn dầu quy đổi vào năm 2030 và 335-409 triệu tấn dầu quy đổi vào năm 2050.

- Tổng nhu cầu năng lượng cuối cùng 103-110 triệu tấn dầu quy đổi vào năm 2030 và đạt 150-186 triệu tấn dầu quy đổi vào năm 2050.

- Tỷ trọng năng lượng tái tạo trong tổng năng lượng sơ cấp 15-20% năm 2030 và 70-80% năm 2050.

- Tiết kiệm năng lượng khoảng 9% vào năm 2030 và khoảng 20% vào năm 2050 so với Kịch bản phát triển bình thường.

- Đạt mục tiêu cắt giảm khí nhà kính 25% vào năm 2030 và 74% vào năm 2050 so với kịch bản phát triển bình thường; tổng phát thải CO2 là 401-429 triệu tấn vào năm 2030 và 103-125 triệu tấn vào năm 2050.

Để đạt được các mục tiêu trên, Quy hoạch đặt ra các giải pháp bao gồm: Giải pháp về thúc đẩy và khuyến khích đầu tư; giải pháp về cơ chế, chính sách; giải pháp về bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu, khoa học và công nghệ; giải pháp về phát triển nguồn nhân lực; giải pháp về hợp tác quốc tế; giải pháp về điều hành quy hoạch.

VĂN QUANG

Một số bất cập và kiến nghị hoàn thiện về hình phạt tử hình theo pháp luật Việt Nam

2. Thanh tra việc thực hiện pháp luật về cấp phép, quản lý giá, chất lượng trang thiết bị y tế

(LSVN) - Thanh tra Bộ Y tế vừa ban hành Quyết định thanh tra việc thực hiện pháp luật về cấp phép, quản lý giá và chất lượng trang thiết bị y tế tại Vụ Trang thiết bị và công trình y tế (Bộ Y tế), thời hạn thanh tra 45 ngày.

Ảnh minh họa.

Thời kỳ thanh tra là từ ngày 01/01/2020 đến ngày 31/8/2022 và thời kỳ trước, sau có liên quan.

Đoàn thanh tra bao gồm 7 thành viên, do ông Nguyễn Văn Nhiên, Phó Chánh Thanh tra Bộ Y tế làm Trưởng đoàn; 6 thành viên khác thuộc Thanh tra Bộ Y tế, Vụ Pháp chế, Viện Trang thiết bị và công trình y tế, Viện Kiểm định quốc gia vaccine và sinh phẩm y tế.

Theo Thanh tra Bộ Y tế, đoàn kiểm tra có nhiệm vụ thanh tra việc thực hiện pháp luật về cấp phép, quản lý giá, quản lý chất lượng trang thiết bị y tế; kiểm tra xác minh việc chấp hành các quy định của pháp luật về cấp phép, quản lý giá, quản lý chất lượng trang thiết bị y tế tại một số đơn vị như: Văn phòng đại diện nước ngoài tại Việt Nam, đơn vị được giao thực hiện kiểm định trang thiết bị y tế và các cơ sở sản xuất, xuất nhập khẩu, kinh doanh trang thiết bị y tế có liên quan.

Việc thanh tra nhằm phát hiện những sơ hở, bất cập trong cơ chế quản lý, chính sách pháp luật liên quan cấp phép, quản lý giá, quản lý chất lượng trang thiết bị y tế để kiến nghị cơ quan cấp có thẩm quyền các giải pháp khắc phục các sơ hở, bất cập đó và phát huy các nhân tố tích cực.

Đồng thời, kết luận cụ thể các nội dung đã thanh tra, báo cáo kết quả với người ra quyết định; phát hiện vi phạm (nếu có), xác định rõ tính chất, mức độ vi phạm, nguyên nhân, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có vi phạm.

Đoàn thanh tra cũng có nhiệm vụ xử lý và kiến nghị xử lý các hành vi vi phạm theo quy định của pháp luật, đề xuất với cơ quan có thẩm quyền các biện pháp tăng cường và nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước về cấp phép, quản lý giá, quản lý chất lượng trang thiết bị y tế.

Hiện nay, theo quy định, các trang thiết bị y tế phải được kê khai công khai giá trước khi thực hiện mua bán. Tuy nhiên, nhiều cơ sở y tế phản ánh, do chưa có cơ quan, đơn vị chức năng thẩm tra lại giá kê khai thiết bị y tế thời điểm công bố, đồng thời cũng chưa có bên nào chịu trách nhiệm kiểm soát kê khai giá, Bộ Y tế chỉ hậu kiểm, nên chưa có đủ cơ sở pháp lý để các đơn vị tham khảo, ra quyết định mua sắm, gây khó khăn cho các cơ sở y tế trong quá trình mua sắm.

PV

Một số bất cập và kiến nghị hoàn thiện về hình phạt tử hình theo pháp luật Việt Nam

1. Tòa án Hiến pháp Thái Lan phán quyết chưa hết thời hạn nhiệm kỳ của Thủ tướng Prayut

(LSVN) - Theo phóng viên tại Bangkok, trong phán quyết đưa ra chiều 30/9, Tòa án Hiến pháp Thái Lan nêu rõ nhiệm kỳ của Thủ tướng Prayut Chan-o-cha được tính từ ngày 06/4/2017 khi Hiến pháp hiện hành bắt đầu có hiệu lực.

Ông Prayut Chan-o-cha phát biểu tại Bangkok, Thái Lan. Ảnh: AFP/TTXVN.

Phán quyết được đưa ra sau khi 9 Thẩm phán tại Tòa án Hiến pháp Thái Lan bỏ phiếu thông qua với tỉ lệ ủng hộ 6/9.

Cụ thể, theo phán quyết, nhiệm kỳ chính thức của Thủ tướng Prayut được tính từ khi Hiến pháp hiện hành của Thái Lan có hiệu lực vào ngày 06/4/2017. Như vậy, thời gian giữ chức vụ Thủ tướng của ông Prayut tính đến ngày 24/8/2022 chưa quá thời hạn được quy định tại Điều 158, khoản 4, Hiến pháp năm 2017. Do đó, tư cách Thủ tướng của ông Prayut không bị chấm dứt theo Điều 170, khoản 2, và Điều 158, khoản 4 của Hiến pháp.

Tòa án tuyên bố: “Căn cứ những lý do nêu trên, Tòa án Hiến pháp Thái Lan, với số phiếu đa số ủng hộ, phán quyết ông Prayut sẽ không bị miễn nhiệm Thủ tướng".

Ông Prayut lên nắm quyền tại Thái Lan ngày 24/8/2014 sau cuộc đảo chính do ông đứng đầu vào tháng 5 cùng năm. Ngày 06/4/2017, Hiến pháp hiện nay của Thái Lan bắt đầu có hiệu lực, trong đó Điều 158 của Hiến pháp quy định “Thủ tướng không được giữ chức vụ tổng cộng quá 8 năm, dù liên tục hay ngắt quãng". Ngày 09/6/2019, ông Prayut tiếp tục giữ chức Thủ tướng sau cuộc tổng tuyển cử tiến hành hồi tháng 3 cùng năm.

Ngày 24/8 vừa qua, Tòa án Hiến pháp Thái Lan đã ra lệnh đình chỉ nhiệm vụ của Thủ tướng Prayut Chan-o-cha để chờ phán quyết về thời hạn nhiệm kỳ. Động thái này diễn ra sau khi Tòa án Hiến pháp chấp nhận chấp nhận kiến nghị của phe đối lập yêu cầu phán quyết về thời hạn nhiệm kỳ thủ tướng của ông Prayut. Phe đối lập cho rằng thời hạn nhiệm kỳ 8 năm của ông Prayut đã kết thúc vào ngày 24/8/2022 vì ông bắt đầu giữ cương vị này ngày 24/8/2014. 

Mặc dù bị đình chỉ chức vụ Thủ tướng, ông Prayut vẫn ở trong Nội các Thái Lan vì ông vẫn giữ chức Bộ trưởng Quốc phòng.

Theo các phương tiện truyền thông Thái Lan, sáng 30/9, ông Prayut vẫn đến trụ sở Bộ Quốc phòng để làm việc.

Trước đó, từ 19h ngày 29/9, an ninh đã được thắt chặt tại trụ sở Tòa án Hiến pháp Thái Lan nằm bên trong khu phức hợp các cơ quan Chính phủ Thái Lan trên đường Chaeng Watthana. Những người không có nhiệm vụ không được đến gần trụ sở của Tòa án Hiến pháp, trong khi những người làm việc xung quanh khu nhà phải qua kiểm tra an ninh kỹ lưỡng. Các biện pháp này có hiệu lực đến 6h00 ngày 03/10.

TTXVN

Một số bất cập và kiến nghị hoàn thiện về hình phạt tử hình theo pháp luật Việt Nam

10. Tiếp tục thực hiện chủ trương sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã

(LSVN) - Ngày 30/9, thực hiện quy định tại khoản 2, Điều 80 của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Tổng Thư ký Quốc hội, Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Bùi Văn Cường đã công bố Nghị quyết số 595/NQ-UBTVQH15 về việc tiếp tục thực hiện chủ trương sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã.

Theo đó, Ủy ban Thường vụ Quốc hội tán thành nội dung Báo cáo số 312/BC-ĐGS ngày 09/9/2022 của Đoàn Giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về kết quả giám sát việc thực hiện các nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã trong giai đoạn 2019 - 2021. 

Cụ thể, việc sắp xếp đơn vị hành chính giai đoạn 2019 - 2021 đã bước đầu hoàn thành các mục tiêu, yêu cầu, nhiệm vụ đề ra tại Nghị quyết số 18-NQ/TW của Hội nghị Trung ương 6 khóa XII, Nghị quyết số 37-NQ/TW của Bộ Chính trị, Nghị quyết số 56/2017/QH14 của Quốc hội và đạt được nhiều kết quả tích cực.

Quá trình triển khai thực hiện chủ trương sắp xếp đơn vị hành chính thể hiện tinh thần quyết tâm, trách nhiệm và sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị từ Trung ương đến cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã; có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan, tổ chức có liên quan và đặc biệt là vai trò, trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, người đứng đầu nên công tác triển khai cơ bản thuận lợi, nhận được sự đồng thuận, ủng hộ của Nhân dân.

Trong giai đoạn 2019 - 2021, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành 48 nghị quyết về việc sắp xếp 21 đơn vị hành chính cấp huyện và 1.056 đơn vị hành chính cấp xã tại 45 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, qua đó cả nước đã giảm được 08 đơn vị hành chính cấp huyện và 561 đơn vị hành chính cấp xã.

Việc sắp xếp đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã đã góp phần tinh gọn tổ chức bộ máy của các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị (giảm được 3.437 cơ quan ở cấp xã và 429 cơ quan ở cấp huyện), tinh giản biên chế (tính đến hết năm 2021, ở cấp xã giảm 3.595 người, ở cấp huyện giảm 141 người), giảm chi ngân sách nhà nước trong giai đoạn 2019 - 2021 đạt khoảng 2.008,63 tỉ đồng, cơ cấu lại và nâng cao chất lượng, trách nhiệm công vụ của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức theo đúng mục đích, yêu cầu của Đảng đã đề ra; góp phần mở rộng không gian phát triển, tập trung nguồn lực, phát huy tiềm năng, lợi thế sẵn có của các địa phương để phát triển bền vững. Sau khi thực hiện sắp xếp đơn vị hành chính, các cơ quan, tổ chức, đơn vị trong hệ thống chính trị ở những địa phương thực hiện sắp xếp đều được kiện toàn và bảo đảm thực hiện đầy đủ, có hiệu quả chức năng, nhiệm vụ được giao, quốc phòng, an ninh được giữ vững, trật tự, an toàn xã hội được bảo đảm, đời sống Nhân dân ổn định, không phát sinh khiếu nại, tố cáo do việc sắp xếp đơn vị hành chính.

Bên cạnh những kết quả tích cực đã đạt được, việc sắp xếp đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã giai đoạn 2019 - 2021 cũng còn có một số khó khăn, vướng mắc. Công tác bố trí, sắp xếp, giải quyết chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức, viên chức dôi dư do sắp xếp đơn vị hành chính còn lúng túng, số lượng người dôi dư cần tiếp tục giải quyết còn nhiều. Vẫn còn nhiều trụ sở làm việc của cơ quan, tổ chức ở các đơn vị hành chính thực hiện sắp xếp chưa được bố trí, sử dụng hiệu quả; việc tổ chức thanh lý, bán đấu giá các trụ sở, tài sản công dôi dư sau sắp xếp còn chậm và gặp nhiều khó khăn.

Công tác hướng dẫn việc thực hiện chế độ, chính sách đặc thù đối với các đơn vị hành chính mới được thành lập chưa kịp thời, đồng bộ, chưa có sự kết nối đầy đủ với các chính sách, pháp luật khác có liên quan. Chất lượng đô thị, mật độ dân số đô thị ở một số đơn vị hành chính đô thị được hình thành trên cơ sở sáp nhập với đơn vị hành chính nông thôn chưa được bảo đảm; sau khi sắp xếp, nhu cầu đầu tư xây dựng, nâng cấp cơ sở hạ tầng đô thị rất lớn trong khi nguồn ngân sách nhà nước còn hạn hẹp, việc xã hội hóa, huy động các nguồn lực trong xã hội còn hạn chế. Trong giai đoạn đầu sau khi thực hiện sắp xếp, đời sống sinh hoạt của Nhân dân ở một số địa phương cũng chịu tác động, ảnh hưởng nhất định do phải điều chỉnh thông tin, thay đổi địa chỉ,... 

Những vướng mắc, bất cập nêu trên do nhiều nguyên nhân. Trước hết, tiêu chuẩn về quy mô dân số và diện tích tự nhiên của đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã theo Nghị quyết số 1211/2016/UBTVQH13 ngày 25 tháng 5 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về tiêu chuẩn của đơn vị hành chính và phân loại đơn vị hành chính được quy định tương đối cao, chưa thực sự phù hợp với điều kiện thực tế của một số địa bàn, vùng miền dẫn đến số lượng đơn vị hành chính cần sắp xếp ở một số địa phương quá lớn, khó có thể thực hiện cùng lúc để đạt đủ tiêu chuẩn theo quy định. Quy hoạch tổng thể quốc gia, quy hoạch vùng, quy hoạch tỉnh đang được tổ chức lập đồng thời và chưa được phê duyệt; chưa có quy hoạch tổng thể đơn vị hành chính trên cả nước nên việc sắp xếp các đơn vị hành chính chủ yếu mới dựa trên tiêu chuẩn về diện tích tự nhiên, quy mô dân số mà chưa thực sự gắn với tầm nhìn và định hướng phát triển ổn định, lâu dài.

Bên cạnh đó, đây là lần đầu triển khai thực hiện sắp xếp đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã trên phạm vi và quy mô lớn nhất từ trước đến nay nên cả các cơ quan Trung ương và địa phương đều chưa có kinh nghiệm, quá trình thực hiện có phần còn lúng túng; các văn bản hướng dẫn chưa thực sự kịp thời, đầy đủ và đồng bộ; thời gian thực hiện gấp, khối lượng công việc nhiều, phức tạp nên các địa phương gặp khó khăn trong việc bảo đảm đúng tiến độ; các cơ chế tài chính hiện hành chưa thực sự phù hợp và đủ mạnh để có thể khuyến khích, hỗ trợ một cách thỏa đáng cho cán bộ, công chức, viên chức dôi dư nghỉ việc ổn định đời sống, tạo việc làm mới.

Đây là những vấn đề cần nghiên cứu, có giải pháp khắc phục hiệu quả để chuẩn bị và tổ chức triển khai thực hiện chu đáo việc tiếp tục sắp xếp đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã trong giai đoạn 2022 - 2030.

Để phát huy kết quả đạt được, khắc phục những tồn tại, hạn chế, hoàn thành các công việc được giao theo nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Chính phủ trong việc sắp xếp đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã trong giai đoạn 2019 - 2021; đồng thời chuẩn bị tốt các điều kiện cho việc tiếp tục sắp xếp đơn vị hành chính giai đoạn 2022 - 2030, Nghị quyết đề ra một số nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu. Trong đó, cần tiếp tục kiện toàn tổ chức bộ máy, công tác cán bộ, khẩn trương tháo gỡ các vướng mắc, khắc phục các bất cập trong công tác sắp xếp đơn vị hành chính giai đoạn 2019 - 2021 đồng thời tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật phục vụ việc sắp xếp đơn vị hành chính giai đoạn 2022 - 2030.

VĂN QUANG

Một số bất cập và kiến nghị hoàn thiện về hình phạt tử hình theo pháp luật Việt Nam