LSVNO - Tại buổi Tọa đàm chuyên gia về “Thực trạng quản lý, sử dụng Quỹ bảo hiểm y tế và kết quả thực hiện Nghị quyết 68/2013/QH13” do Chủ nhiệm Ủy ban Về các vấn đề xã hội Nguyễn Thúy Anh chủ trì, đại diện Bộ Y tế cho biết, ngành y tế đã đạt được một số kết quả nhất định trong việc nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế.
Theo đại diện Bộ Y tế, số cơ sở khám chữa bệnh (KCB) và số lượt khám chữa bệnh bảo hiểm y tế (KCB BHYT) được thống kê cụ thể như sau: Năm 2018, Bảo hiểm xã hội (BHXH) các tỉnh tổ chức ký hợp đồng KCB BHYT với hơn 2.300 cơ sở, tăng 147 cơ sở so với năm 2017. Trong đó, cơ sở công lập tăng 55 cơ sở, số cơ sở ngoài công lập tăng 91 cơ sở.
Theo loại hình: công lập: 1.549 cơ sở, ngoài công lập: 544 cơ sở và y tế cơ quan: 223 cơ sở.
Theo tuyến: tuyến trung ương: 43 cơ sở, tuyến tỉnh: 655 cơ sở, tuyến huyện: 1.407 cơ sở, tuyến xã: 211 cơ sở. Theo phương thức thanh toán: 1.996 cơ sở thanh toán theo phí dịch vụ; 320 cơ sở thanh toán theo định suất.
Đối với chi phí KCB năm 2018: năm 2018 lượt KCB BHYT tăng 4% so với năm 2017, số chi tăng 11% so với năm 2017.
Tuyến tỉnh vẫn là tuyến có tỷ lệ chi phí trong tổng chi cao nhất. Số lượt đến KCB tại tuyến Trung ương chỉ bằng 3,45% tổng lượt KCB toàn quốc, nhưng số chi chiếm 20,36%. KCB tại tuyến xã chiếm tỷ lệ 3% tổng chi.
Đại diện Bộ Y tế báo cáo tại buổi Tọa đàm.
Đại diện Bộ Y tế nêu rõ, Bộ đã tiến hành cải cách thủ tục hành chính, người dân ngày càng thuận lợi trong việc tiếp cận dịch vụ KCB do số cơ sở KCB ký hợp đồng với cơ quan BHYT tăng hằng năm, cùng với việc thực hiện đồng bộ các giải pháp về cải cách thủ tục hành chính nhằm nâng cao chất lượng KCB, đáp ứng sự hài lòng của người bệnh.
Cụ thể: Triển khai các hoạt động cải cách thủ tục hành chính, quy trình khám bệnh giảm từ 12 đến 14 bước xuống còn 4 đến 8 bước tùy theo loại hình khám bệnh, giảm trung bình 48,5 phút trên 1 lượt khám bệnh, tiết kiệm được trung bình 27,2 triệu ngày công lao động/năm cho xã hội; Triển khai Đề án xây dựng và phát triển mạng lưới y tế cơ sở trong tình hình mới: xây dựng và thực hiện mô hình trạm y tế xã theo nguyên lý y học gia đình, phòng khám bác sỹ gia đình, lập hồ sơ quản lý sức khỏe cá nhân tại trạm y tế xã, triển khai gói dịch vụ y tế cơ bản tại tuyến y tế cơ sở...
Đặc biệt, việc triển khai ứng dụng công nghệ thông thin trong KCB đã góp phần cải cách thủ tục KCB một cách đáng kể.
Hơn nữa, ngành y đã tiếp tục thực hiện Bộ 83 tiêu chí chất lượng; đổi mới phong cách phục vụ, nâng cao y đức; xây dựng cơ sở y tế “Xanh - Sạch - Đẹp”, hướng tới sự hài lòng của người bệnh.
Triển khai liên thông kết quả xét nghiệm, chẩn đoán đối với các phòng xét nghiệm đã đạt ISO-15189 tại 28 bệnh viện trực thuộc Bộ. Tích cực nâng cao chất lượng lâm sàng, xét nghiệm, ban hành hướng dẫn quy trình kỹ thuật chẩn đoán, điều trị; rà soát sửa đổi quy chế bệnh viện.
Chất lượng khám, chữa bệnh trong thời gian gần đây đã có sự tiến bộ rõ rệt. Bộ mặt chung của nhiều bệnh viện đã thay đổi, việc chỉ dẫn, đón tiếp tốt hơn, môi trường bệnh viện đang xanh hơn, nhà vệ sinh, cảnh quan sạch hơn, đẹp hơn. Chất lượng lâm sàng đang dần được nâng lên.
Mức chất lượng trung bình toàn quốc năm 2017 đạt 2.81/5, trong đó nhóm các tiêu chí “Hướng đến người bệnh” cao nhất, đạt mức 3,18/5. Trung bình các bệnh viện trực thuộc Bộ Y tế đã đạt mức 3,49/5 và kết quả đánh giá năm 2018 đã có một số bệnh viện đã có bước tiến vượt bậc đạt mức 4/5.
Kết quả khảo sát cho thấy có sự gia tăng đáng kể về tỷ lệ hài lòng của người bệnh, đạt khoảng 80% ở các loại khảo sát khác nhau.
Đối với việc cung ứng thuốc và vật tư y tế, đã thực hiện thành công và mở rộng danh mục thuốc đấu thầu tập trung đàm phán giá cấp quốc gia; thí điểm đấu thầu tập trung vật tư y tế để giảm giá, giảm chi quỹ BHYT.
Xây dựng đề án và đang thí điểm đấu thầu tập trung 6 loại vật tư y tế sử dụng nhiều tại các bệnh viện trực thuộc Bộ Y tế; Triển khai Đề án xây dựng và phát triển mạng lưới y tế cơ sở trong tình hình mới.
Số lượng các dịch vụ thực hiện theo phân tuyến kỹ thuật của trung tâm y tế huyện, trạm y tế xã ngày càng tăng, một số đơn vị đã thực hiện được một số kỹ thuật của tuyến trên. Xây dựng và thực hiện mô hình 26 trạm y tế xã điểm theo nguyên lý y học gia đình.
Phát triển mô hình phòng khám bác sỹ gia đình ở các nơi có điều kiện. Cả nước đã có khoảng 160 bệnh viện tự bảo đảm chi thường xuyên, giảm số lượng người làm việc hưởng lương từ ngân sách nhà nước tại các bệnh viện này.
Ngoài ra, Bộ Y tế đã không ngừng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Theo đó, tiếp tục đổi mới đào tạo nguồn nhân lực y tế theo hướng hội nhập quốc tế. Tăng cường quản lý công tác đào tạo chuyên khoa cấp I, chuyên khoa cấp II, bác sĩ nội trú, đào tạo liên tục cán bộ y tế theo hướng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân.
Bên cạnh đào tạo về chuyên môn, Bộ Y tế tổ chức các lớp đào tạo về quản lý y tế cho các lãnh đạo sở, trung tâm y tế và các bệnh viện. Thực hiện thành công nhiều kỹ thuật cao, tiên tiến trên thế giới, góp phần chẩn đoán chính xác và điều trị hiệu quả các bệnh hiểm nghèo, bệnh khó, cứu sống nhiều người bệnh, hạn chế tình trạng người Việt Nam ra nước ngoài KCB.
Phó Chủ nhiệm Ủy ban về các vấn đề xã hội Bùi Sỹ Lợi phát biểu ý kiến.
Thảo luận tại Tọa đàm, các đại biểu ghi nhận những kết quả mà ngành y tế đã đạt được trong thời gian qua nói chung và công tác khám, chữa bệnh BHYT nói riêng.
Tuy nhiên, một số đại biểu chỉ ra rằng vẫn còn một số tồn tại hạn chế cần khắc phụ như: Chất lượng dịch vụ tại y tế cơ sở chưa đáp ứng yêu cầu, nhiều trạm y tế xã chưa làm tốt công tác truyền thông, giáo dục sức khỏe, chăm sóc sức khỏe ban đầu, chưa thực hiện quản lý bệnh không lây nhiễm, quản lý sức khỏe cá nhân, chăm sóc sức khỏe cho một số đối tượng theo luật định.
Cơ chế hoạt động chưa đầy đủ, chưa rõ ràng, cơ chế tài chính chưa phù hợp, là nguyên nhân căn bản dẫn đến vượt tuyến, gây quá tải bệnh viện. Chất lượng dịch vụ KCB được nâng lên nhưng chưa đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao và đa dạng của người dân, có sự chênh lệch lớn giữa các tuyến, các vùng.
Bên cạnh đó, một số đại biểu còn chỉ ra rằng, công tác KCB thời gian qua hầu hết mới chỉ tập trung vào chữa bệnh mà chưa có đủ điều kiện chăm sóc toàn diện người bệnh. Lợi thế của y dược cổ truyền chưa phát huy tốt. Tình trạng vượt tuyến dẫn đến quá tải ở một số bệnh viện trung ương và thành phố lớn chưa được giải quyết triệt để.
Cơ chế tài chính chậm đổi mới, đặc biệt ở các viện nghiên cứu, y tế dự phòng, việc điều hành, quản lý các cơ sở y tế, đặc biệt là các bệnh viện công. Việc tạm ứng, thanh quyết toán chi phí KCB BHYT vẫn còn vướng mắc giữa cơ sở KCB BHYT và cơ quan BHXH.
Trên cơ sở các ý kiến thảo luận tại Tọa đàm, Chủ nhiệm Ủy ban Về các vấn đề xã hội Nguyễn Thúy Anh đề nghị Bộ Y tế, Bảo hiểm xã hội Việt Nam nghiêm túc tiếp thu các ý kiến góp ý để hoàn thiện báo cáo; cần có những nhận định đúng, đủ và chính xác về thực trạng công tác khám, chữa bệnh BHYT để khắc phụ những yếu kém, làm tốt hơn công tác này trong những thời gian tiếp theo.