Luật Trọng tài thương mại năm 2010 và sau đó là Nghị quyết số 01/2014/NQ-HĐTP ngày 20/3/2014 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao đã làm rõ hơn một số quy định của Luật này. Chính vì vậy, số vụ việc được giải quyết bằng thủ tục trọng tài đang ngày càng tăng trong các năm qua. Theo tài liệu công bố thông tin thống kê năm 2020 của Bộ Tư pháp thì có tới 6.693 vụ việc đã có phán quyết trọng tài và hòa giải thành [1]. Con số đó cho thấy hình thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại đang ngày càng được quan tâm và sẽ trở thành lựa chọn ưu tiên của các cá nhân, tổ chức hoạt động thương mại trong và ngoài nước. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn một số yếu tố ảnh hưởng đến việc lựa chọn và giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại, trong đó có vấn đề phí trọng tài. Bài viết phân tích thực trạng và giải pháp đối với vấn đề phí trọng tài thương mại hiện nay.
Cơ sở tính phí trọng tài thương mại
Điều 34 Luật Trọng tài thương mại năm 2010 quy định: Phí trọng tài là khoản thu từ việc cung cấp dịch vụ giải quyết tranh chấp bằng trọng tài. Phí trọng tài gồm: Thù lao trọng tài viên, chi phí đi lại và các chi phí khác cho trọng tài viên; phí tham vấn chuyên gia và các trợ giúp khác theo yêu cầu của hội đồng trọng tài; phí hành chính; phí chỉ định trọng tài viên vụ việc của trung tâm trọng tài theo yêu cầu của các bên tranh chấp; phí sử dụng các dịch vụ tiện ích khác được cung cấp bởi trung tâm trọng tài. Phí trọng tài do trung tâm trọng tài ấn định. Trường hợp vụ tranh chấp được giải quyết bởi trọng tài vụ việc, phí trọng tài do hội đồng trọng tài ấn định. Bên thua kiện phải chịu phí trọng tài, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác hoặc quy tắc tố tụng trọng tài quy định khác hoặc hội đồng trọng tài có sự phân bổ khác.
Theo như quy định trên, phí trọng tài không do Nhà nước quản lý mà do trung tâm trọng tài hoặc hội đồng trọng tài tự ấn định. Chính vì cơ chế tự do quy định phí nên Luật Trọng tài thương mại năm 2010 chỉ có một điều luật duy nhất nói trên để điều chỉnh phí trọng tài. Việc cho phép các trung tâm trọng tài và hội đồng trọng tài tự do tính phí đã giúp tăng tính cạnh tranh giữa các trung tâm và giữa các trọng tài với nhau, do đó, các bên tranh chấp cũng có lợi hơn về chi phí phải trả cho mỗi lần xử lý. Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng có không ít những bất cập xuất phát từ tính chất quá tự do này, cụ thể như sau:
Pháp luật hiện hành không có cơ chế cụ thể để tính phí trọng tài thương mại, mà phí sẽ do từng trung tâm trọng tài quy định. Trung tâm trọng tài là tổ chức phi chính phủ, chính vì thế mà tất cả các chế độ thu, chi cho việc hoạt động, xử lý vụ việc đều do trung tâm trọng tài tự quản lý, tự chịu trách nhiệm. Do đó mà phí trọng tài do trung tâm trọng tài hoặc hội đồng trọng tài toàn quyền quyết định mà không bị phụ thuộc hay giới hạn bởi các quy định pháp luật. Nói cách khác, trung tâm trọng tài chính là một tổ chức kinh doanh dịch vụ “xử lý tranh chấp” và các trung tâm cạnh tranh giá với nhau.
Ví dụ: Biểu phí trọng tài của Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (ban hành kèm theo Quyết định số 89/QĐ-VIAC ngày 25/01/2016 của Chủ tịch VIAC)[2] đang được áp dụng:
Trị giá vụ tranh chấp | Phí trọng tài (đã bao gồm VAT) |
100.000.000 đồng trở xuống | 16.500.000 đồng |
100.000.001 đồng đến 1.000.000.000 đồng | 16.500.000 đồng + 7.7% số tiền vượt quá 100.000.000 đồng |
1.000.000.001 đồng đến 5.000.000.000 đồng | 85.800.000 đồng + 4.4% số tiền vượt quá 1.000.000.000 đồng |
5.000.000.001 đồng đến 10.000.000.000 đồng | 261.800.000 đồng + 2.75% số tiền vượt quá 5.000.000.000 đồng |
10.000.000.001 đồng đến 50.000.000.000 đồng | 399.300.000 đồng + 1.65% số tiền vượt quá 10.000.000.000 đồng |
50.000.000.001 đồng đến 100.000.000.000 đồng | 1.059.300.000 đồng + 1.1% số tiền vượt quá 50.000.000.000 đồng |
100.000.000.001 đồng đến 500.000.000.000 đồng | 1.609.300.000 đồng + 0.5% số tiền vượt quá 100.000.000.000 đồng |
500.000.000.001 đồng trở lên | 3.609.300.000 đồng + 0.3% số tiền vượt quá 500.000.000.000 đồng |
Trên thực tế, đối với các vụ việc không có hoặc không ghi giá trị tranh chấp thì thông thường, chủ tịch trung tâm trọng tài sẽ là người quyết định phí trọng tài dựa trên tính chất phức tạp của vụ việc, thời gian giải quyết và số lượng trọng tài viên. Ngoài ra, biểu phí của các trung tâm trọng tài đều có những quy định khác về mức phí trong một số trường hợp cụ thể và những trường hợp được hoàn trả phí trọng tài.
Đa số các trung tâm trọng tài sẽ tính thêm khoản phí hành chính, dùng để chi trả cho việc sử dụng cơ sở vật chất của trung tâm, mở kho lưu trữ thông tin phục vụ cho việc giải quyết tranh chấp, xem xét hiệu lực của thỏa thuận trọng tài. Ngoài ra, phụ thuộc vào tính chất phức tạp của các vụ tranh chấp, có thể sẽ cần tham khảo ý kiến của các chuyên gia và các bên sẽ phải chịu chi phí này.
Khi so sánh với các trung tâm trọng tài nước ngoài như HKIAC[3], LCIA[4], SIAC[5]…, cách thức tính phí trọng tài như công thức trên của các trung tâm trọng tài tại Việt Nam có thể thấy là chưa tiến bộ. Ngoài việc xác định phí trọng tài theo giá trị tranh chấp thì các trung tâm trọng tài nước ngoài này còn quy định rõ phí tại một số giai đoạn, phí nào không hoàn trả và phí nào có thể hoàn trả. Họ cũng có thể cho khách hàng lựa chọn thuê trọng tài, thư ký, cố vấn hay kế toán để xử lý theo giờ làm việc.
Trọng tài viên không nhận lương từ trung tâm mà hưởng thù lao theo vụ việc. Các trọng tài viên sẽ không nhận lương cố định mà được hưởng thù lao từ việc tham gia giải quyết tranh chấp từng vụ việc. Lúc này, ta có thể nghi ngờ rằng, mặc dù một số vụ việc không thuộc thẩm quyền giải quyết của trọng tài, hoặc thỏa thuận trọng tài vô hiệu nhưng trung tâm trọng tài vẫn bất chấp thụ lý và thành lập hội đồng trọng tài giải quyết. Bởi khi bắt đầu quy trình tố tụng trọng tài, các bên đã phải nộp phí. Ví dụ, theo khoản 1 và khoản 2 Điều 35 Quy tắc VIAC, nếu các bên không có thỏa thuận, nguyên đơn phải nộp đủ phí trọng tài tại thời điểm nộp đơn khởi kiện [6]. Thù lao của trọng tài được hưởng từ phí trọng tài có thể là động cơ để trọng tài viên luôn hướng đến việc đưa vụ án ra hội đồng trọng tài xét xử. Kể cả trong trường hợp không thể thụ lý thì trong một số trường hợp, trung tâm trọng tài vẫn thu phí và mở phiên họp chỉ để tuyên bố thỏa thuận trọng tài của các bên là vô hiệu hoặc không thực hiện được.
Việc thụ lý bất chấp dẫn đến hậu quả là vụ việc có thể bị đình chỉ bất cứ lúc nào trong suốt quá trình tố tụng trọng tài; hoặc khi đã có phán quyết thì bên thua kiện sẽ tìm cách đưa vụ việc ra Tòa án để hủy phán quyết trọng tài. Mặc dù thực trạng trên chưa phổ biến nhưng cũng đã có những ảnh hưởng xấu đến hình ảnh của trọng tài thương mại, không chỉ với người Việt mà còn với các thương nhân nước ngoài muốn ký kết hợp đồng kinh doanh thương mại với đối tác tại Việt Nam. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến việc các bên còn e ngại khi quyết định lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp là trọng tài thương mại thay vì Tòa án.
Các trường hợp hoàn phí trọng tài thương mại
Theo quy tắc trọng tài, phí trọng tài là bắt buộc và sẽ không hoàn trả hoàn toàn; ngay cả trường hợp có bằng chứng cho thấy quá trình giải quyết vụ việc, hội đồng trọng tài đã nhận hối lộ hoặc gian lận thì Luật Trọng tài thương mại cũng chỉ quy định về hệ quả là phán quyết trọng tài sẽ vô hiệu (nếu một bên có chứng cứ và yêu cầu Tòa án tuyên vô hiệu) chứ không nói về việc giải quyết phí trọng tài nếu bên không vi phạm đã chi trả. Hiện nay, hầu hết các trung tâm trọng tài tại Việt Nam đều đưa ra ba trường hợp sẽ được hoàn trả một phần phí trọng tài thương mại:
Trường hợp 1: Khi rút đơn khởi kiện; sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện; rút đơn kiện lại; sửa đổi, bổ sung đơn kiện lại.
Trong đó, mức phí được hoàn trả giảm dần nếu các đơn trên được rút: trước khi hội đồng trọng tài được thành lập; sau khi hội đồng trọng tài được thành lập; sau khi trung tâm gửi giấy triệu tập phiên họp giải quyết vụ tranh chấp và trước ngày mở phiên họp giải quyết vụ tranh chấp. Điều này cho thấy các trung tâm trọng tài sẽ tính phí theo giai đoạn và dựa trên công sức đã bỏ ra như nghiên cứu vụ việc, tham khảo ý kiến chuyên gia, thành lập hội đồng trọng tài…
Xét ví dụ trong Biểu phí trọng tài của Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam nêu trên: Công ty A và Công ty B tranh chấp và có điều khoản trọng tài giải quyết là Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC), giá trị tranh chấp giữa hai bên nằm trong khoảng từ 10.000.000.001 đồng đến 50.000.000.000 đồng, khi đó, phí mà bên khởi kiện phải nộp là 399.300.000 đồng + 1.65% số tiền vượt quá 10.000.000.000 đồng. Tuy nhiên, sau đó bị đơn đã tự liên hệ và hòa giải thành với nguyên đơn, nguyên đơn đồng ý rút đơn khởi kiện trước khi hội đồng trọng tài được thành lập. Theo quy định về hoàn trả phí tại biểu phí trọng tài thì nguyên đơn sẽ được trả lại 70% tiền phí, và số tiền không hoàn lại tương ứng với 30% là 119.790.000 đồng + 0.495% số tiền vượt quá 10.000.000.000 đồng. Với cùng giá trị tranh chấp, nếu nguyên đơn rút đơn khởi kiện sau khi hội đồng trọng tài được thành lập thì nguyên đơn sẽ chỉ được hoàn lại 40% số tiền đã nộp. Chưa kể, phí đó không bao gồm chi phí đi lại, lưu trú và các chi phí có liên quan khác của các trọng tài viên và thư ký phiên họp giải quyết vụ tranh chấp; chi phí giám định, định giá tài sản, chi phí tham vấn ý kiến chuyên gia và chi phí cho các trợ giúp khác.
Có thể thấy, với việc chỉ mới tiếp nhận đơn khởi kiện, thành lập hội đồng trọng tài nhưng nếu nguyên đơn rút đơn khởi kiện thì trung tâm trọng tài vẫn nhận được mức phí rất cao. Trong thực tiễn, nếu xảy ra tranh chấp mà một bên trong hợp đồng cố ý không hợp tác thì bên còn lại có xu hướng khởi kiện ra trung tâm trọng tài để buộc bên kia ngồi vào bàn đàm phán, nếu hai bên đạt được thỏa thuận thì sẽ rút đơn khởi kiện. Theo quy định của Luật Trọng tài thương mại và hầu hết các trung tâm trọng tài, người khởi kiện sẽ là bên phải nộp phí trọng tài. Nhưng vấn đề mức hoàn phí thấp như trên làm bên có ý định khởi kiện ra trung tâm trọng tài sẽ e ngại về mức phí mà họ bỏ ra nếu hòa giải thành ngoài tố tụng trọng tài.
Ngoài ra, trường hợp các bên đã tự thỏa thuận được với nhau thì có thể yêu cầu chủ tịch trung tâm trọng tài ra quyết định đình chỉ giải quyết tranh chấp theo quy định tại Điều 38 Luật Trọng tài thương mại. Tuy nhiên, điều luật trên không nói rõ bên nào có quyền yêu cầu nên có thể hiểu khi hai bên đạt được thỏa thuận và lập thành văn bản, bất cứ bên nào cũng có thể mang tài liệu chứng minh việc thỏa thuận thành đó và gửi đề nghị tới chủ tịch trung tâm trọng tài đang xử lý vụ việc. Tuy nhiên, các trung tâm trọng tài không quy định về vấn đề hoàn phí trong trường hợp đình chỉ giải quyết tranh chấp do có yêu cầu của một bên. Do đó, nếu có trường hợp trên xảy ra sẽ dẫn đến việc lúng túng khi xử lý, hoặc tranh chấp giữa trung tâm trọng tài và bên được hoàn phí.
Trường hợp 2: Khi hội đồng trọng tài ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ tranh chấp do không có thỏa thuận trọng tài (bao gồm cả trường hợp thỏa thuận trọng tài không bảo đảm điều kiện về hình thức) hoặc thỏa thuận trọng tài vô hiệu hoặc thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được.
Chúng ta cần phân biệt ba trường hợp trong quy định trên, đó là: (1) Không có thỏa thuận trọng tài; (2) Thỏa thuận trọng tài vô hiệu và (3) Thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được.
Đối với trường hợp “không có thỏa thuận trọng tài”, trên thực tế xảy ra các trường hợp gồm: (a) Khi các bên thỏa thuận ký kết hợp đồng mà trong nội dung hợp đồng không thỏa thuận về điều khoản giải quyết tranh chấp bằng trọng tài; (b) mặc dù có đề cập đến thỏa thuận trọng tài khi đàm phán hợp đồng nhưng hai bên không đưa nội dung thỏa thuận trọng tài như một điều khoản vào hợp đồng để ký kết, hay nói cách khác là hai bên chưa từng lập bất cứ thỏa thuận trọng tài nào bằng văn bản theo quy định tại Điều 16 Luật Trọng tài thương mại năm 2010 và Điều 7 Nghị quyết số 01/2014/NQ-HĐTP.
Các trường hợp “thỏa thuận trọng tài vô hiệu” được liệt kê tại Điều 18 Luật Trọng tài thương mại, như: Lĩnh vực không thuộc thẩm quyền của trọng tài, người xác lập thỏa thuận không có thẩm quyền, không có năng lực hành vi dân sự, hoặc hình thức, nội dung của thỏa thuận không đúng quy định pháp luật.
Riêng “thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được” cũng đã được đề cập tại Điều 6 Luật Trọng tài thương mại nhưng vẫn chưa có khái niệm cụ thể; sau đó, tại Điều 4 Nghị quyết số 01/2014/NQ-HĐTP mới đưa ra các trường hợp mà thỏa thuận trọng tài không thực hiện được. Trong đó, các nguyên nhân dẫn đến trường hợp này hầu hết đều xuất phát từ việc trọng tài viên hoặc trung tâm trọng tài không hoặc không thể giải quyết tranh chấp. Ngoài ra, trong điều này của Nghị quyết cũng có một điểm tiến bộ, nhằm bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng khi cho họ quyền từ chối giải quyết bằng trọng tài nếu điều khoản trọng tài được nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ soạn sẵn trong hợp đồng mẫu.
Theo đó, trong một vài trường hợp như: Một trong các bên bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép trong quá trình xác lập thỏa thuận trọng tài hoặc người xác lập thỏa thuận trọng tài không có thẩm quyền, không có năng lực hành vi dân sự... thì trung tâm trọng tài có thể không biết và không buộc phải biết vấn đề này khi thụ lý vụ việc. Ngoài ra, hầu hết các trường hợp còn lại trọng tài viên đều có khả năng xác định thỏa thuận trọng tài thuộc 3 trường hợp có thể bị đình chỉ sau khi thụ lý đơn, song khi một trong các bên nộp đơn khởi kiện thì trung tâm trọng tài đã không giải thích mà vẫn nhận đơn và nhận phí dù sau đó biết chắc là thuộc trường hợp bị đình chỉ giải quyết theo quy định.
Tác giả cho rằng, với việc quy định hội đồng trọng tài ra quyết định đình chỉ giải quyết tranh chấp trong các trường hợp trên sẽ làm mất thêm chi phí, thời gian để thành lập hội đồng trọng tài. Đồng thời, các trung tâm trọng tài cũng chỉ hoàn trả khoảng 30% phí trọng tài nếu có quyết định đình chỉ của hội đồng trọng tài. Rõ ràng, việc quy định như vậy là chưa thực sự hợp lý khi trung tâm trọng tài hoặc trọng tài viên rất dễ nhận thấy trường hợp vụ việc tranh chấp thuộc trường hợp đình chỉ ngay từ đầu khi tiếp nhận đơn. Điều đó dẫn đến tình trạng các trung tâm trọng tài mặc dù biết không có thỏa thuận trọng tài hoặc thỏa thuận trọng tài vô hiệu hoặc thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được nhưng vẫn cố tình thành lập hội đồng để thu được mức phí cao hơn.
Trường hợp 3: Khi hội đồng trọng tài ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ tranh chấp khi có quyết định của Tòa án cho rằng tranh chấp không thuộc thẩm quyền của trọng tài.
Khoản 1 Điều 18 Luật Trọng tài thương mại đã quy định, nếu tranh chấp phát sinh trong các lĩnh vực không thuộc thẩm quyền của trọng tài thì thỏa thuận trọng tài vô hiệu, lúc này hội đồng trọng tài có thể ra quyết định đình chỉ giải quyết ngay tại thời điểm tiếp nhận vụ việc. Tuy nhiên, nếu vụ việc vẫn được thụ lý và hội đồng trọng tài ra phán quyết thì một bên có quyền khiếu nại tại Tòa án có thẩm quyền để xem xét lại quyết định của trọng tài theo quy định tại Điều 44 Luật Trọng tài thương mại. Tác giả bài viết cho rằng, việc xem xét vụ tranh chấp có thuộc thẩm quyền giải quyết của mình hay không là một nguyên tắc cơ bản mà bất cứ trọng tài viên nào cũng phải biết và xác định được; do đó, trong trường hợp Tòa án quyết định vụ tranh chấp không thuộc thẩm quyền của hội đồng trọng tài, vụ việc bị đình chỉ giải quyết theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 59 Luật Trọng tài thương mại thì lúc này phần lớn trách nhiệm thuộc về hội đồng trọng tài. Theo lẽ thông thường, phí mà một hoặc các bên phải chịu nhưng không đi đến kết quả phải được hoàn lại phần lớn nếu do lỗi của hội đồng trọng tài. Tuy nhiên, trên thực tế phí trọng tài chỉ được hoàn lại khoảng 20% theo các biểu phí mà các trung tâm trọng tài hiện đang áp dụng trong trường hợp trên, điều này là chưa hợp lý.
Đối với các chủ thể kinh doanh, hạn chế hiểu biết về pháp luật là điều không thể tránh khỏi, chính vì thế mà khi tìm tới các cơ quan nhà nước hay cơ quan có chức năng giải quyết vấn đề của mình là họ đang muốn các cơ quan này giải thích, hướng dẫn và thực thi theo đúng quy định pháp luật. Khi tiếp cận và quyết định lựa chọn Trọng tài thương mại, một hoặc các bên tranh chấp tin rằng trọng tài thương mại là phương án tối ưu để giải quyết vụ việc tranh chấp, thay vì Tòa án. Nhưng khi xảy ra trường hợp nói trên, vụ việc sẽ không còn được giải quyết bằng con đường trọng tài vì không thuộc thẩm quyền; và dù sau đó có các vụ tranh chấp khác thuộc thẩm quyền của trọng tài thương mại nhưng các bên cũng sẽ mất niềm tin và rút kinh nghiệm không lựa chọn trọng tài để giải quyết, tránh trường hợp bị đình chỉ như trên.
Như vậy, trong cả ba trường hợp được hoàn phí trọng tài nêu trên thì mức hoàn trả vẫn ở mức quá thấp. Các trung tâm trọng tài chỉ căn cứ vào từng giai đoạn và công sức của trọng tài viên để đưa ra phần trăm số tiền mà đương sự được hoàn lại chứ hoàn toàn không dựa trên hiệu quả của công việc. Đây rõ ràng là điều không hợp lý khi trung tâm trọng tài là một tổ chức kinh doanh dịch vụ xử lý tranh chấp nhưng khi kết quả không đạt được thì khách hàng vẫn phải trả phần lớn phí dịch vụ. Việc quy định mức hoàn phí như trên sẽ ảnh hưởng đến tâm lý của những trọng tài tiếp nhận vụ việc, trong bất cứ trường hợp nào cũng muốn thụ lý, sau đó dù vụ tranh chấp bị đình chỉ thì vẫn sẽ được nhận thù lao và không bị truy cứu trách nhiệm. Mặt khác, điều đó cũng ảnh hưởng đến tâm lý khách hàng, bởi vì sau khi vụ tranh chấp bị đình chỉ thì các bên không có quyền khởi kiện yêu cầu trọng tài giải quyết lại vụ tranh chấp đó nếu việc khởi kiện vụ tranh chấp sau không có gì khác với vụ tranh chấp trước về nguyên đơn, bị đơn và quan hệ pháp luật có tranh chấp, trừ các trường hợp quy định tại điểm c và điểm đ khoản 1 Điều 59 Luật Trọng tài thương mại. Trường hợp sau khi lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp là trọng tài nhưng vì lý do nào đó mà vụ việc bị đình chỉ thì các bên lại phải giải quyết thông qua Tòa án, trong khi vẫn mất phí trọng tài. Như vậy, nhiều người sẽ có tâm lý lựa chọn giải quyết tranh chấp bằng Tòa án ngay từ đầu để tránh trường hợp vừa mất tiền vừa mất thời gian như trên. Ngoài ra, với quy định như hiện nay về đình chỉ giải quyết tranh chấp tại trọng tài mà chưa có chế tài đủ sức răn đe đối với trọng tài viên cố ý làm trái, bao gồm cả việc cố ý thụ lý bị Tòa án xác định không thuộc thẩm quyền hoặc ra phán quyết trọng tài sai trái một cách nghiêm trọng. Trong khi đó, với hình thức tố tụng tại Tòa án thì bản án có thể bị hủy, thẩm phán giải quyết vụ án có thể bị xem xét, xử lý trách nhiệm nếu làm sai. Điều này là không thỏa đáng đối với những người đứng ở cương vị “cầm cân nảy mực” khi giải quyết tranh chấp. Và nếu vụ án bị hủy, sửa án thì án phí cũng được xem xét lại chứ không mất khoản phí quá nhiều như hình thức tố tụng trọng tài mà các trung tâm trọng tài vẫn thu của các bên khi giải quyết tranh chấp.
Xử lý án phí khi Tòa án hủy phán quyết trọng tài
Mặc dù Luật Trọng tài thương mại quy định phán quyết của hội đồng trọng tài có giá trị chung thẩm, tuy nhiên, phán quyết đó vẫn có thể bị hủy bởi Tòa án khi có yêu cầu của đương sự và có căn cứ quy định tại Điều 68 Luật Trọng tài thương mại:
“Ðiều 68. Căn cứ hủy phán quyết trọng tài
1. Tòa án xem xét việc hủy phán quyết trọng tài khi có đơn yêu cầu của một bên.
2. Phán quyết trọng tài bị hủy nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Không có thỏa thuận trọng tài hoặc thỏa thuận trọng tài vô hiệu;
b) Thành phần hội đồng trọng tài, thủ tục tố tụng trọng tài không phù hợp với thoả thuận của các bên hoặc trái với các quy định của Luật này;
c) Vụ tranh chấp không thuộc thẩm quyền của hội đồng trọng tài; trường hợp phán quyết trọng tài có nội dung không thuộc thẩm quyền của hội đồng trọng tài thì nội dung đó bị hủy;
d) Chứng cứ do các bên cung cấp mà hội đồng trọng tài căn cứ vào đó để ra phán quyết là giả mạo; trọng tài viên nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác của một bên tranh chấp làm ảnh hưởng đến tính khách quan, công bằng của phán quyết trọng tài;
đ) Phán quyết trọng tài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam”.
Trong các trường hợp đã phân tích ở trên, việc rút đơn khởi kiện hay hội đồng trọng tài ra quyết định đình chỉ giải quyết tranh chấp nghĩa là vụ việc đang trong quá trình giải quyết mà chưa có phán quyết cuối cùng. Trong khi đó, việc hủy phán quyết trọng tài nghĩa là vụ tranh chấp đã có phán quyết trọng tài; dẫn đến việc đương sự cũng sẽ không được hoàn phí trong bất cứ trường hợp nào.
Nhìn một cách tổng thể, các trung tâm trọng tài đặt ra mức hoàn phí trọng tài dựa trên tiêu chí là mức độ hoàn thành công việc tính tới thời điểm vụ án dừng lại tại trung tâm trọng tài (vụ án dừng lại bởi rất nhiều nguyên nhân, có thể là do hòa giải thành, bị đình chỉ, nguyên đơn rút đơn hoặc đã có phán quyết trọng tài). Nếu không nhìn vào yếu tố hiệu quả thì vấn đề trên là dễ hiểu vì phí mà đương sự chi trả phải tương ứng với thời gian, công sức mà trung tâm trọng tài đã bỏ ra. Mặt khác, khi nhìn dưới góc độ kinh tế, các đương sự và trung tâm trọng tài cũng giống như người mua và người bán dịch vụ trên thị trường. Người mua dịch vụ chỉ trả toàn bộ chi phí mà hai bên đã thỏa thuận trong trường hợp họ sử dụng trọn vẹn dịch vụ đó và đạt được mục đích của họ. Chắc hẳn sẽ không có bên mua nào chấp nhận trả tiền cho bên bán khi mà bên bán thực hiện xong dịch vụ nhưng lại kết quả lại không đạt được, và bên mua lại phải mua dịch vụ của một bên bán thứ ba khác. Tương tự như vậy, trung tâm trọng tài hoàn tất “dịch vụ trọng tài” bằng một “phán quyết trọng tài” nhưng kết quả đó lại bị hủy do lỗi của chính trung tâm trọng tài. Vì sao tôi lại nói là do lỗi của Trung tâm trọng tài? Xét từ điểm a đến điểm đ khoản 2 Điều 68 Luật Trọng tài thương mại, có thể chia ra ba lý do chính mà Phán quyết trọng tài bị hủy là:
(1) Điểm a và điểm c: Ngay từ đầu, trung tâm trọng tài đã không có thẩm quyền để giải quyết vụ việc nhưng vẫn giải quyết.
(2) Điểm b: Trọng tài thực hiện sai về mặt tố tụng khi giải quyết vụ việc.
(3) Điểm d và điểm đ: Trọng tài vi phạm quy định pháp luật khi giải quyết vụ việc.
Như vậy, rõ ràng cả ba lý do trên đều xuất phát từ lỗi của trọng tài viên hoặc của trung tâm trọng tài, không có lỗi của đương sự và hậu quả là phán quyết trọng tài bị hủy. Theo cách hiểu thông thường, trong bất cứ giao dịch song hoặc đa phương mà một bên có lỗi thì bên đó phải chịu trách nhiệm đối với phần lỗi của mình. Do đó, thiết nghĩ trong trường hợp phán quyết bị hủy do lỗi từ trọng tài thì trọng tài phải chịu trách nhiệm, đồng nghĩa với việc phần phí mà đương sự phải chi trả cho trung tâm trọng tài nhưng không đạt được kết quả phải được hoàn trả/hoàn trả một phần.
Tóm lại, phí trọng tài thương mại hiện nay chưa được quản lý dẫn đến tình trạng các trung tâm trọng tài tùy ý quy định. Những quy định này chưa thực sự hợp lý khi không đi đôi với trách nhiệm của các trọng tài viên nên quyền lợi của người lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài chưa được bảo đảm, vẫn còn những phán quyết trọng tài bị hủy bởi Tòa án.
Đề xuất hướng hoàn thiện quy định pháp luật
Trung tâm trọng tài hiện nay được thành lập và hoạt động theo cơ chế tự chủ tài chính từ nguồn thu là phí giải quyết các tranh chấp. Với quy định về mức phí trọng tài và các trường hợp hoàn phí như hiện nay của các trung tâm trọng tài là không phù hợp, không phản ánh đúng bản chất là đơn vị cung cấp dịch vụ pháp lý của trung tâm trọng tài, thậm chí là bất bình đẳng với các bên có nhu cầu giải quyết tranh chấp bằng hình thức tố tụng trọng tài.
Do đó, trong vấn đề giải quyết các tranh chấp bằng thủ tục trọng tài cũng cần có sự quản lý nhất định đối với trung tâm trọng tài và trọng tài viên, nhất là vấn đề về phí trọng tài thương mại. Khi phí được điều chỉnh bởi pháp luật, trách nhiệm của trọng tài sẽ đi kèm và gắn chặt với quyền lợi của họ, từ đó thì việc thụ lý, thực hiện và ra phán quyết của trọng tài sẽ được nâng cao chất lượng.
Với những bất cập về phí mà người nghiên cứu đã trình bày ở trên, việc đặt ra khung pháp lý về phí trọng tài thương mại và quy định đối với các trường hợp cụ thể là điều cần thiết, người viết đề xuất một số phương hướng giải quyết như sau:
Thứ nhất, pháp luật nên có quy định mức phí nộp đơn khởi kiện là mức phí cố định và không hoàn lại cho tất cả các vụ việc, vì việc nộp đơn chỉ là thủ tục ban đầu và không liên quan nhiều đến giá trị tranh chấp hay tính chất phức tạp của vụ việc nên không thể dựa vào giá trị tranh chấp để tính tổng phí trọng tài ngay từ đầu. Sau đó, việc thụ lý và giải quyết tranh chấp sẽ được tính theo giá trị tranh chấp mà các bên yêu cầu trong đơn khởi kiện. Như vậy, khi vụ việc tạm dừng hoặc đình chỉ thực hiện tại những bước đầu thì trung tâm trọng tài và các đương sự không cần thực hiện việc hoàn phí, giảm thiểu nguy cơ tranh chấp giữa các bên.
Bên cạnh đó, phí cho bên thứ ba như là các chuyên gia, cố vấn… hoặc chi phí hành chính, phí sử dụng cơ sở vật chất của trung tâm trọng tài cũng cần được quy định cụ thể hoặc có mức giá trần và công bố công khai tại trụ sở cũng như trên website của các trung tâm trọng tài. Quy định như vậy sẽ giúp đương sự có cái nhìn toàn diện về mức phí mà mình có thể phải trả trước khi lựa chọn sử dụng dịch vụ trọng tài; tránh việc rơi vào tình trạng tiến thoái lưỡng nan khi đang giải quyết vụ việc nhưng phải chi trả thêm các chi phí phát sinh ở mức quá cao nếu muốn tiếp tục.
Riêng đối với các trung tâm trọng tài, tùy theo phương thức hoạt động mà các trung tâm có thể đưa ra nhiều sự lựa chọn hơn cho khách hàng, trọng tài theo giờ là một ví dụ.
Thứ hai, cần bổ sung quy định các trường hợp cụ thể mà trung tâm trọng tài hoặc hội đồng trọng tài phải hoàn phí cho đương sự. Trong đó, cần quy định mức sàn phần trăm hoàn phí theo từng trường hợp hoặc từng giai đoạn của vụ án. Những quy định đó phải phù hợp với công sức của các trọng tài viên đã bỏ ra, nhưng cũng phải bảo đảm để trọng tài giữ tinh thần trách nhiệm của mình; tránh trường hợp thụ lý vụ việc vô tội vạ trong khi không có thẩm quyền hoặc có sự tiêu cực trong quá trình xử lý và ra phán quyết. Tác giả dự thảo một điểm như sau: “Trường hợp phán quyết trọng tài bị hủy theo quy định tại khoản 2 Điều 68 Luật Trọng tài thương mại, mức hoàn phí trọng tài cho đương sự là không dưới 75% phí trọng tài quy định trong biểu phí của trung tâm trọng tài hoặc trong thỏa thuận đối với hội đồng trọng tài sau khi đã trừ đi các chi phí hợp lý”.
Thứ ba, cần xây dựng cơ chế liên đới trách nhiệm của trọng tài viên khi xảy ra các trường hợp tiêu cực hoặc thiếu trách nhiệm khi thực hiện nhiệm vụ. Ví dụ: Khi có quyết định của Tòa án tuyên hủy phán quyết trọng tài mà xác định được rằng lý do hủy xuất phát từ lỗi của hội đồng trọng tài/trọng tài viên thì hội đồng trọng tài/trọng tài viên sẽ phải chịu một phần trách nhiệm hoặc có thể bị kỷ luật theo mức độ tăng dần như hoàn trả phí trọng tài, bồi thường thiệt hại (nếu có), tạm dừng công tác, dừng việc thực hiện nhiệm vụ tại trung tâm trọng tài, hủy bỏ tư cách trọng tài viên…
Ngoài ra, trong trường hợp này cần công khai danh sách các trọng tài viên, hội đồng trọng tài trên các trang thông tin trong đó ghi nhận các lỗi sai phạm của họ đối với những trường hợp cố ý làm trái khi bản thân có đủ kiến thức và khả năng mà trọng tài viên buộc phải biết, nếu tái phạm thì không được làm trọng tài viên về sau nữa.
Hy vọng, các đề xuất này sẽ giúp bảo đảm quyền lợi cho các đương sự khi lựa chọn trọng tài làm phương thức để giải quyết tranh chấp, từ đó gia tăng trách nhiệm của trọng tài viên khi tiếp nhận xử lý vụ việc, nâng cao chất lượng trong tố tụng trọng tài, giảm bớt áp lực cho Tòa án.
[1].https://moj.gov.vn/cttk/chuyenmuc/Pages/thong-tin-thong-ke.aspx [2]. https://www.viac.vn/bieu-phi [3]. https://www.hkiac.org/arbitration/fees [4]. https://www.lcia.org/Dispute_Resolution_Services/schedule-of-costs.aspx [5]. https://www.siac.org.sg/ [6]. https://www.viac.vn/bieu-phi |
Thạc sĩ, Luật sư NGUYỄN TIẾN MẠNH
Giám đốc Công ty Luật TNHH Hồng Long
Đoàn Luật sư TP. Hồ Chí Minh
Một số vấn đề về quyền thu thập chứng cứ của người bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự