1. Sự cần thiết phải quản lý nhà nước về xây dựng pháp luật
Pháp luật có vai trò đặc biệt quan trọng trong tổ chức, hoạt động của Nhà nước và trong quản lý xã hội, pháp luật vừa là công cụ để Nhà nước quản lý xã hội, vừa là công cụ để nhân dân làm chủ, kiểm tra, giám sát quyền lực nhà nước. Thời gian qua, công tác xây dựng pháp luật đã góp phần quan trọng trong việc tạo ra môi trường pháp lý thông thoáng, bình đẳng để ổn định xã hội và phát triển kinh tế. Công tác xây dựng pháp luật được đẩy mạnh và hiệu quả là nhờ có công tác quản lý để việc xây dựng pháp luật đi đúng hướng. Chính vì vậy, công tác quản lý nhà nước về xây dựng pháp luật là vô cùng cần thiết và có vai trò đặc biệt quan trọng trong xây dựng Nhà nước pháp quyền và tạo hành lang pháp lý để hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Để bảo đảm có một hệ thống văn bản quy phạm pháp luật đáp ứng được các yêu cầu của xã hội thì không thể tách rời hoạt động xây dựng pháp luật với hoạt động quản lý nhà nước về xây dựng pháp luật và bảo đảm cơ chế phối hợp trong xây dựng pháp luật nói chung và quản lý nhà nước về xây dựng pháp luật nói riêng.
Quản lý nhà nước về xây dựng pháp luật là hoạt động của cơ quan nhà nước có thẩm quyền tác động liên tục, có tổ chức, có chủ đích đến các tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xây dựng, ban hành, sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật theo quy định của pháp luật bằng hệ thống luật pháp và bộ máy của mình nhằm điều chỉnh và mục đích để các hoạt động đó diễn ra và phát triển trong khuôn khổ cho phép của pháp luật.
Hoạt động quản lý nhà nước về xây dựng pháp luật có vai trò vô cùng quan trọng, giúp cho các văn bản quy phạm pháp luật được xây dựng một cách đúng hướng, phù hợp của nội dung chính sách với đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước; bảo đảm tính hợp hiến, tính hợp pháp, tính đồng bộ thống nhất với hệ thống pháp luật và tính khả thi, đảm bảo tương thích với điều ước quốc tế có liên quan mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
Mục đích của quản lý nhà nước về xây dựng pháp luật là nhằm xây dựng một hệ thống văn bản quy phạm pháp luật thống nhất, đồng bộ, khả thi, dễ tiếp cận, dễ thực hiện bảo đảm tính hợp hiến, tính hợp pháp, tính đồng bộ thống nhất với hệ thống pháp luật và phục vụ đắc lực cho sự nghiệp phát triển kinh tế, xã hội của đất nước.
Để thực hiện tốt chức năng của mình, cơ quan quản lý nhà nước về xây dựng pháp luật có quyền kiểm soát chất lượng văn bản bằng các công cụ được pháp luật cho phép như kiểm tra, đôn đốc, hướng dẫn nghiệp vụ đối với các cơ quan xây dựng pháp luật và quản lý nhà nước về xây dựng pháp luật ở cấp dưới, yêu cầu xử lý văn bản được ban hành trái pháp luật hoặc xử lý văn bản ban hành trái pháp luật theo thẩm quyền.
Chủ thể quản lý nhà nước về xây dựng pháp luật có quyền tiến hành các hoạt động cần thiết để bảo đảm thực hiện ý chí Nhà nước như: Xây dựng thể chế về xây dựng pháp luật, tổ chức thi hành các chính sách và pháp luật về xây dựng pháp luật, xây dựng và thực thi các chiến lược, kế hoạch trong điều hành việc xây dựng pháp luật; các biện pháp về tổ chức, triển khai thi hành luật và các văn bản hướng dẫn thi hành để bảo đảm chất lượng, hiệu quả công tác xây dựng pháp luật, tuyên truyền, phổ biến các quy định về trình tự, thủ tục ban hành văn bản, bảo đảm sự phối hợp nhịp nhàng, thống nhất và hiệu quả trong công tác xây dựng pháp luật; đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác xây dựng pháp luật và hoàn thiện hệ thống pháp luật.
2. Các quy định của pháp luật thể hiện vị trí, vai trò của Bộ Tư pháp trong việc giúp Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về xây dựng pháp luật
Kể từ khi được thành lập năm 1945, giải thể rồi tái thành lập, cùng với quá trình phát triển thăng trầm của đất nước, Bộ Tư pháp luôn thể hiện được vai trò quan trọng của mình trong công tác quản lý nhà nước về hoạt động xây dựng pháp luật. Hoạt động quản lý nhà nước về xây dựng pháp luật là một trong những chức năng cơ bản của Bộ Tư pháp đã được ghi nhận ngay tại văn bản pháp lý đầu tiên đánh dấu sự tái lập Bộ Tư pháp đó là Nghị định số 143/HĐBT ngày 22/11/1981 của Hội đồng Bộ trưởng quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức Bộ Tư pháp. Có thể nói, bằng các quy định cụ thể về chức năng nhiệm vụ cũng như cơ cấu tổ chức của Bộ Tư pháp trong lĩnh vực xây dựng pháp luật, Nghị định số 143/HĐBT ngày 22/11/1981 là một cột mốc lịch sử, tạo lập cơ sở pháp lý quan trọng cho hoạt động quản lý nhà nước về xây dựng pháp luật của Bộ Tư pháp.
Tất cả các văn bản pháp luật quy định về vị trí pháp lý của Bộ Tư pháp từ trước đến nay, trừ văn bản đầu tiên (Nghị định số 37 ngày 01/12/1945 về tổ chức Bộ Tư pháp) đều quy định Bộ Tư pháp có chức năng giúp Chính phủ quản lý công tác xây dựng pháp luật. Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay, trước yêu cầu đẩy mạnh cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế sâu rộng, vai trò của Bộ Tư pháp trong quản lý công tác xây dựng pháp luật ngày càng được mở rộng và tăng cường. Với vị trí là một cơ quan của Chính phủ, Bộ Tư pháp có nhiệm vụ tương tự như của các bộ khác trong công tác xây dựng văn bản pháp luật, đó là chủ trì soạn thảo các luật, pháp lệnh, nghị định, quyết định của Thủ tướng Chính phủ và thông tư của Bộ trưởng. Bên cạnh đó, thực hiện chức năng, nhiệm vụ là cơ quan “gác cổng” giúp Chính phủ quản lý công tác xây dựng pháp luật của các bộ, ngành, địa phương. Chức năng này của Bộ Tư pháp tiếp tục được quy định rõ tại Nghị định số 96/2017/NĐ-CP ngày 16/8/2017 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tư pháp.
So với nhiệm vụ, quyền hạn quản lý công tác xây dựng pháp luật được quy định tại Nghị định số 22/2013/NĐ-CP ngày 13/3/2013 thì Bộ Tư pháp được giao thêm hai nhiệm vụ, đó là chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan ngang bộ chuẩn bị ý kiến của Chính phủ đối với đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh không do Chính phủ trình và ý kiến của Chính phủ đối với kiến nghị về luật, pháp lệnh của đại biểu Quốc hội theo quy định của pháp luật; chuẩn bị ý kiến của Chính phủ đối với dự án luật, pháp lệnh không do Chính phủ trình theo sự phân công của Thủ tướng Chính phủ và lập danh mục văn bản quy định chi tiết luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước trình Thủ tướng Chính phủ quyết định; thông báo cho Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh) về danh mục các nội dung giao cho địa phương quy định chi tiết và lập danh mục văn bản quy định chi tiết luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước trình Thủ tướng Chính phủ quyết định; thông báo cho Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương về danh mục các nội dung giao cho địa phương quy định chi tiết.
Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 được Quốc hội khóa XIII thông qua tại kỳ họp thứ 9 và có hiệu lực kể từ ngày 01/7/2016 (sau đây gọi là Luật năm 2015). Với tính chất là một “Luật về làm luật”, Luật năm 2015 là một đạo luật rất quan trọng trong hệ thống pháp luật của Việt Nam.
Bên cạnh việc kế thừa các quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 (Luật năm 2008) về nhiệm vụ của Bộ Tư pháp trong công tác quản lý nhà nước về xây dựng pháp luật (giúp Chính phủ lập đề nghị chương trình xây dựng luật, pháp lệnh hằng năm; thẩm định dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật…), Luật năm 2015 đã bổ sung nhiều quy định mới nhằm nâng cao vị trí, vai trò của Bộ Tư pháp trong công tác quản lý nhà nước về xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật như giao Bộ Tư pháp chủ trì thẩm định đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh, nghị định của Chính phủ; chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan ngang bộ có liên quan chuẩn bị ý kiến của Chính phủ đối với đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh không do Chính phủ trình…
Cùng với Nghị định số 96/2017/NĐ-CP ngày 16/8/2017 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tư pháp, vai trò của Bộ Tư pháp trong quản lý nhà nước về công tác xây dựng pháp luật được khẳng định rõ nét thông qua Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 (Luật năm 2015), Nghị định số 34/2016/NĐ-CP ngày 14/5/2016 quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật năm 2015 đề cao vai trò, trách nhiệm của Bộ Tư pháp trong việc tham mưu, giúp Chính phủ quản lý thống nhất về công tác xây dựng và thi hành pháp luật, kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật, phổ biến, giáo dục pháp luật. Theo các văn bản quy phạm pháp luật nêu trên, chức năng, nhiệm vụ của Bộ Tư pháp trong lĩnh vực xây dựng và thi hành pháp luật tiếp tục được tăng cường, mở rộng, đặc biệt là công tác quản lý nhà nước về xây dựng pháp luật. Đây là căn cứ pháp lý quan trọng khẳng định vai trò, trách nhiệm cũng như tạo cơ sở pháp lý để Bộ Tư pháp thực hiện hiệu quả hơn chức năng giúp Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về công tác xây dựng pháp luật ở thời điểm hiện tại và trong thời gian tới.
Bộ Tư pháp có vai trò rất lớn trong toàn bộ quy trình lập pháp ở nước ta, đi xuyên suốt quá trình xây dựng một văn bản để thực hiện chức năng quản lý nhà nước của mình, một chức năng quan trọng được Chính phủ giao để bảo đảm việc xây dựng pháp luật được diễn ra trong khuôn khổ và thống nhất trên toàn quốc.
3. Nội dung quản lý nhà nước về xây dựng pháp luật của Bộ Tư pháp
Thực hiện chức năng quản lý nhà nước về xây dựng pháp luật của mình, Bộ Tư pháp tiến hành thực hiện các hoạt động sau:
- Xây dựng chiến lược xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật.
- Nghiên cứu hoàn thiện quy trình xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật nhằm nâng cao chất lượng văn bản quy phạm pháp luật.
- Thẩm định, tham gia xây dựng, góp ý đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh do Chính phủ trình và đề nghị xây dựng nghị định; lập đề nghị của Chính phủ về chương trình xây dựng luật, pháp lệnh hàng năm đối với các vấn đề thuộc phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ; dự kiến cơ quan chủ trì, cơ quan phối hợp soạn thảo dự án luật, pháp lệnh trình Thủ tướng Chính phủ quyết định và kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện chương trình.
- Lập danh mục văn bản quy định chi tiết luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước trình Thủ tướng Chính phủ quyết định; thông báo cho Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh) về danh mục các nội dung giao cho địa phương quy định chi tiết.
- Hướng dẫn, theo dõi, đôn đốc, kiểm tra công tác xây dựng pháp luật của các bộ, cơ quan ngang bộ và địa phương theo quy định của pháp luật. Trong nội dung quản lý này, Bộ Tư pháp thường tổ chức các hoạt động sau:
+ Biên soạn các tài liệu hướng dẫn nghiệp vụ xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật và hoàn thiện hệ thống pháp luật cho cán bộ làm công tác xây dựng pháp luật ở cả trung ương và địa phương;
+ Tổ chức đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ về xây dựng văn bản quy phạm pháp luật và hoàn thiện hệ thống pháp luật cho cán bộ làm công tác xây dựng pháp luật ở cả trung ương và địa phương;
+ Hằng năm, tổ chức các khóa bồi dưỡng chuyên sâu cho cán bộ, công chức tham gia xây dựng văn bản quy phạm pháp luật trên toàn quốc về kiến thức, phương pháp và kỹ năng xây dựng chính sách, đánh giá tác động của chính sách, thẩm định chính sách, soạn thảo, thẩm định dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật…
+ Thực hiện nhiệm vụ thường xuyên trong việc hướng dẫn chuyên môn nghiệp vụ cho các bộ, ngành, địa phương qua đường công văn, sự vụ hằng ngày; trả lời vướng mắc bất cập, những tình huống cụ thể trong xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật ở cả trung ương và địa phương và trả lời kiến nghị cử tri liên quan đến lĩnh vực xây dựng pháp luật.
+ Bên cạnh việc xây dựng thể chế về công tác xây dựng pháp luật, đi xuyên suốt quá trình xây dựng một văn bản của các bộ, ngành từ giai đoạn thẩm định chính sách tới khi thông qua; hướng dẫn thống nhất chuyên môn, nghiệp vụ, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc thì hoạt động thanh - kiểm tra là một hoạt động không thể thiếu trong việc thực hiện chức năng quản lý nhà nước về xây dựng pháp luật của mình. Hằng năm, Bộ Tư pháp tổ chức các đoàn kiểm tra liên ngành và chuyên ngành kiểm tra công tác xây dựng pháp luật tại các bộ, ngành, địa phương (trong đó có kiểm tra việc thực hiện chương trình xây dựng luật, pháp lệnh ở các bộ, ngành, kiểm tra việc xây dựng văn bản quy định chi tiết ở các bộ, ngành, địa phương; kiểm tra việc thực hiện các quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật ở trung ương và địa phương...). Đây là hoạt động cuối cùng trong chuỗi các hoạt động trong công tác quản lý nhà nước về xây dựng pháp luật của Bộ Tư pháp và cũng là hoạt động để kiểm nghiệm lại chuỗi các hoạt động ban đầu được thực hiện trên thực tế như thế nào để có hướng giải quyết nếu còn tồn tại những bất cập và hướng giải quyết cao nhất có thể là hoàn thiện thể chế, sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ hoặc thay thế các quy định pháp luật về quản lý nhà nước trong công tác xây dựng pháp luật để việc xây dựng pháp luật ngày càng đạt được những hiệu quả cao hơn nữa.
4. Kết quả đạt được và tồn tại hạn chế trong công tác quản lý nhà nước về xây dựng pháp luật của Bộ Tư pháp
4.1. Kết quả đạt được
Thời gian qua, Bộ Tư pháp cơ bản đã làm tốt cơ chế điều phối các bộ, ngành, địa phương trong việc phối hợp liên ngành và tiếp tục phối hợp chặt chẽ với các Bộ, ngành quản lý nhà nước về xây dựng pháp luật trong việc phổ biến, giáo dục pháp luật, theo dõi thi hành pháp luật. Bộ đã tiếp tục thực hiện hiệu quả các quy chế, chương trình phối hợp đã ký với các cơ quan và tiếp tục ký kết, triển khai các quy chế phối hợp với các bộ, ngành khác[1] trong các lĩnh vực như kiểm tra văn bản với xây dựng văn bản và phổ biến, giáo dục pháp luật.
Bộ Tư pháp đã thường xuyên đôn đốc, tổ chức làm việc với các bộ, ngành nợ đọng nhiều văn bản; tham mưu cho Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo các giải pháp tăng cường trách nhiệm của các bộ, cơ quan ngang bộ trong hoạt động xây dựng, ban hành văn bản. Nhờ đó, tình trạng nợ đọng văn bản quy định chi tiết hướng dẫn thi hành luật, pháp lệnh đã giảm xuống mức thấp nhất trong nhiều năm gần đây, đặc biệt, không còn văn bản nợ đọng thuộc thẩm quyền ban hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.
Chất lượng của văn bản quy phạm pháp luật ngày càng được nâng cao; nội dung của văn bản quy phạm pháp luật bảo đảm tính hợp hiến, cơ bản bảo đảm tính hợp pháp và tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật; đa số văn bản bảo đảm tính khả thi, đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Ở địa phương, tình trạng sao chép quy định của văn bản của cơ quan nhà nước ở trung ương đã được hạn chế; số lượng văn bản quy phạm pháp luật do cấp huyện, cấp xã ban hành giảm đáng kể.
Thực hiện chức năng quản lý nhà nước về xây dựng pháp luật của mình, Bộ Tư pháp đã chủ trì, phối hợp các cơ quan có liên quan tổ chức các hội nghị phổ biến quán triệt các văn bản về xây dựng pháp luật, đặc biệt là quán triệt thực hiện, Hội nghị tập tuấn chuyên sâu Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 tại ba miền Bắc, Trung, Nam cho cán bộ, công chức làm công tác xây dựng pháp luật ở các bộ, ngành, địa phương.
Cùng với việc quán triệt những định hướng lớn trong xây dựng pháp luật Bộ Tư pháp tổ chức xây dựng các sổ tay, các cẩm nang về xây dựng pháp luật như: Kỹ năng soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật, kỹ năng thẩm định, kỹ năng đánh giá tác động văn bản quy phạm pháp luật. Đồng thời, Bộ Tư pháp tổ chức các cuộc tập huấn các kỹ năng nêu trên. Trong năm 2016 và năm 2017, Bộ Tư pháp đã tổ chức 08 lớp bồi dưỡng theo chuyên đề nhằm cung cấp các kỹ năng cần thiết trong công tác xây dựng pháp luật như kỹ năng đánh giá tác động của chính sách, soạn thảo, thẩm định; kiểm tra, xử lý, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật...
Nhận thức được tầm quan trọng trong vai trò quản lý nhà nước và để thực hiện tốt chức năng quản lý nhà nước về xây dựng pháp luật về công tác xây dựng pháp luật, Bộ Tư pháp đã phát triển những “cánh tay nối dài” của mình tại các bộ, ngành là các Vụ pháp chế và các Sở Tư pháp tại các tỉnh thành, bộ phận pháp chế tại các cơ quan chuyên môn trong việc triển khai, đôn đốc thực hiện, có những lớp đào tạo giảng viên nguồn để về đào tạo tại cơ quan đơn vị, tập huấn, đào tạo tại chỗ để nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và năng lực xây dựng pháp luật cho đội ngũ công chức. Đội ngũ những người làm công tác pháp chế và phổ biến, giáo dục pháp luật đã từng bước được củng cố, kiện toàn.
4.2. Tồn tại, hạn chế
Ngoài những kết quả nêu trên thì công tác quản lý nhà nước về xây dựng pháp luật của Bộ Tư pháp còn tồn tại một số còn hạn chế như:
- Chất lượng công tác phổ biến, tập huấn của Bộ Tư pháp chưa thực sự đáp ứng yêu cầu đặt ra, vẫn còn tình trạng chạy theo số lượng để bảo đảm hoàn thành kế hoạch; việc biên soạn, phát hành tài liệu hướng dẫn nghiệp vụ xây dựng, ban hành, thẩm định văn bản quy phạm pháp luật của Bộ Tư pháp còn chưa kịp thời.
- Việc bố trí các đoàn kiểm tra về công tác xây dựng pháp luật tại các bộ, ngành địa phương còn hạn chế. Việc tổ chức các đoàn kiểm tra riêng biệt về công tác xây dựng pháp luật là vô cùng khó khăn, chủ yếu là các đoàn kiểm tra liên ngành, kết hợp kiểm tra nhiều lĩnh vực nên khó tập trung tháo gỡ được khó khăn, vướng mắc trong công tác xây dựng pháp luật.
- Tình trạng chậm hướng dẫn nghiệp vụ, chuyên môn, trả lời kiến nghị của các đơn vị vẫn còn, địa phương phải xin hướng dẫn nhiều lần; có trường hợp nội dung hướng dẫn, trả lời còn chung chung.
- Việc kiểm tra công tác ở địa phương vẫn còn tình trạng chồng chéo về nội dung, địa bàn; tổ chức các hội nghị, hội thảo còn tập trung nhiều vào những tháng cuối năm, đã ảnh hưởng đến thời gian giải quyết công việc chung. Chưa có nhiều cải tiến đáng kể trong công tác báo cáo, thống kê; còn tình trạng yêu cầu các bộ, ngành, địa phương báo cáo quá nhiều.
- Việc tự kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật ở nhiều bộ, ngành, địa phương còn mang tính hình thức, không phát hiện được văn bản sai sót; chưa kịp thời kiểm tra, chưa theo kịp được tiến độ ban hành văn bản. Một số văn bản trái pháp luật về nội dung, thẩm quyền đã có kết luận kiểm tra và đôn đốc xử lý nhưng vẫn chưa được tiến hành xử lý hoặc xử lý chưa triệt để, chưa đúng hình thức và thời hạn theo quy định. Kết quả xử lý văn bản sau rà soát còn thấp.
4.3. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế
4.3.1. Nguyên nhân khách quan
Một là, thể chế quy định về công tác quản lý nhà nước về xây dựng pháp luật còn thiếu và chưa rõ, tản mạn, chủ yếu là thông qua Luật năm 2015 và nghị định quy định chức năng, nhiệm vụ của Bộ Tư pháp. Cơ chế phối hợp trong việc thực hiện việc quản lý nhà nước về xây dựng pháp luật chưa có quy định ràng buộc.
Hai là, đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý nhà nước về xây dựng pháp luật và làm công tác xây dựng pháp luật tại các bộ, ngành, địa phương còn thiếu so với nhu cầu, khối lượng công việc được giao; năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ nhất là khả năng phân tích, dự báo, xây dựng chính sách, kỹ năng soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật chưa đáp ứng được yêu cầu, đòi hỏi ngày càng cao của công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật. Đội ngũ cán bộ pháp chế còn mỏng, kiêm nhiệm nhiều việc; một số địa phương sử dụng biên chế pháp chế để tuyển dụng cho những vị trí việc làm khác; tỷ lệ cán bộ pháp chế ở các địa phương chưa có trình độ cử nhân luật còn cao. Đội ngũ công chức tư pháp - hộ tịch cấp xã thường xuyên thay đổi, khó bảo đảm sự ổn định, chất lượng chuyên môn.
Ba là, chế độ cho cán bộ làm công tác quản lý nhà nước về xây dựng pháp luật còn hạn chế, phương tiện, hạ tầng kỹ thuật khoa học, công nghệ, nhất là công nghệ thông tin phục vụ hoạt động xây dựng văn bản quy phạm pháp còn nghèo nàn và chưa được quan tâm đúng mức. Có thể nói kinh phí dành cho công tác quản lý nhà nước về xây dựng pháp luật chưa phản ánh đúng tính chất phức tạp của hoạt động bảo đảm sự thống nhất trong công tác xây dựng pháp luật trên toàn quốc, chưa phù hợp với thực tiễn, khó đáp ứng được yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, thượng tôn pháp luật.
4.3.2. Nguyên nhân chủ quan
- Ở một số đơn vị thuộc Bộ, Ngành ta còn tình trạng chưa chủ động, chậm triển khai công việc, kể cả một số nhiệm vụ trọng tâm; chất lượng tham mưu còn hạn chế; vẫn còn chậm, hạn chế về chất lượng trong trả lời kiến nghị, hướng dẫn về chuyên môn, nghiệp vụ đối với các cơ quan tư pháp địa phương.
- Một số tổ chức pháp chế, Sở Tư pháp chưa tham mưu kịp thời, đầy đủ cho lãnh đạo các bộ, ngành và cấp ủy, chính quyền địa phương trong công tác tư pháp, pháp chế và xử lý các vấn đề phát sinh từ thực tiễn thi hành pháp luật. Bên cạnh đó, một số bộ, ngành, địa phương chưa thực sự quan tâm, phát huy hiệu quả vai trò tham mưu của cơ quan tư pháp, pháp chế, nhất là trong công tác soạn thảo, thẩm định văn bản quy phạm pháp luật.
- Hạn chế trong phối hợp giữa các bộ, ngành với nhau, giữa trung ương và địa phương, nhất là trong công tác xây dựng pháp luật, theo dõi thi hành pháp luật tiếp tục là nguyên nhân gây nên những tồn tại, hạn chế trong công tác quản lý nhà nước về xây dựng pháp luật.
- Kỷ cương, kỷ luật công vụ ở một số cơ quan, đơn vị chưa nghiêm. Còn tư tưởng ngại thay đổi, nhất là trong ứng dụng, khai thác các thế mạnh của công nghệ thông tin, trong cải cách hành chính mà trọng tâm là cải cách thủ tục hành chính, đổi mới lề lối làm việc.
5. Giải pháp nâng cao chất lượng công tác quản lý nhà nước về xây dựng pháp luật
Nâng cao vai trò của Bộ Tư pháp với tư cách là cơ quan giúp Chính phủ thực hiện chức năng quản lý nhà nước về xây dựng pháp luật theo hướng cần có chủ trương, biện pháp đồng bộ để bảo đảm chất lượng và tiến độ của hoạt động quản lý nhà nước về xây dựng pháp luật, tác giả xin đưa ra các giải pháp sau:
Một là, hoàn thiện hơn về thể chế đối với công tác quản lý nhà nước về xây dựng pháp luật. Luật năm 2015 và Nghị định số 34/2016/NĐ-CP, Nghị định số 96/2017/NĐ-CP đã có những nội dung về nâng cao vai trò, trách nhiệm của Bộ Tư pháp trong việc giúp Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về xây dựng pháp luật. Tuy nhiên, hiện nay còn thiếu công cụ hiệu quả để thực hiện chức năng này bằng hình thức quy phạm pháp luật. Đề nghị thời gian tới cần hoàn thiện thể chế về nội dung này.
Hai là, để việc quản lý nhà nước về xây dựng pháp luật đạt hiệu quả thì cần nâng cao công tác phối hợp liên ngành trong xây dựng pháp luật và quản lý nhà nước về xây dựng pháp luật. Để làm được như vậy thì cần phải có quy định rõ cơ chế phối hợp liên ngành giữa Quốc hội, Chính phủ, các cơ quan trung ương và cơ chế phối hợp cụ thể trong nội bộ Chính phủ, giữa Văn phòng Chính phủ, Bộ Tư pháp và các bộ, ngành, địa phương trong quản lý nhà nước về xây dựng pháp luật.
Ba là, làm tốt hơn nữa công tác hướng dẫn, theo dõi, đôn đốc, kiểm tra công tác xây dựng pháp luật của các bộ, cơ quan ngang bộ và địa phương theo quy định của pháp luật. Bộ Tư pháp cần xây dựng kế hoạch tập huấn, bồi dưỡng và kiểm tra hiệu quả, tăng cường xuất bản các sổ tay, cẩm nang hướng dẫn nghiệp vụ kịp thời đáp ứng khó khăn vướng mắc của các cơ quan, đơn vị xây dựng pháp luật.
Bốn là, cần nghiên cứu chiến lược thu hút, đào tạo, bồi dưỡng và chính sách đãi ngộ cho cán bộ, công chức làm công tác quản lý nhà nước về xây dựng pháp luật đồng thời làm công tác xây dựng pháp luật. Để nâng cao trình độ của đội ngũ công chức làm công tác xây dựng pháp luật và quản lý nhà nước về xây dựng pháp luật thì cần có cách thức phù hợp để thu hút công chức thật sự có năng lực, phẩm chất và đạo đức phục vụ cho hoạt động này. Thu hút người có tài phải đi đôi với việc sử dụng, trọng dụng một cách phù hợp, bố trí công việc phải khách quan, khoa học phù hợp với năng lực chuyên môn để tăng động lực làm việc cho đội ngũ công chức, làm cho họ thêm yêu ngành, yêu nghề, vừa hồng, vừa chuyên, tránh trường hợp “chảy máu chất xám”.
Bên cạnh việc thu hút thì cần có chính sách đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ cho đội ngũ công chức đang làm công tác xây dựng pháp luật và quản lý nhà nước về xây dựng pháp luật.
Năm là, tăng cường kinh phí, cơ sở vật chất gắn với ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý nhà nước về xây dựng pháp luật
Để công tác quản lý nhà nước về xây dựng pháp luật được thực hiện một cách bài bản và phát huy được hiệu quả thì Chính phủ giao Bộ Tài chính phối hợp với Bộ Tư pháp xây dựng Đề án tổng thể bảo đảm nguồn kinh phí hợp lý dành riêng cho các hoạt động xây dựng và thi hành pháp luật, trong đó cần phải bố trí nguồn kinh phí phù hợp cho hoạt động quản lý nhà nước về xây dựng pháp luật. Ngoài ra, Chính phủ cần có quyết sách giao Bộ Tư pháp phối hợp với các bộ, ngành, địa phương nghiên cứu xây dựng cơ chế, chính sách ưu đãi cho người làm công tác xây dựng pháp luật và pháp chế, tăng cường năng lực cho đội ngũ cán bộ pháp chế của các bộ, ngành và địa phương.
Hiện đại hóa phương thức và phương tiện xây dựng pháp luật. Khai thác, ứng dụng tối đa thành tựu của khoa học, kỹ thuật, nhất là công nghệ thông tin nhằm đổi mới phương pháp, tiến độ, chất lượng và hiệu quả của quy trình xây dựng pháp luật và quản lý nhà nước về xây dựng pháp luật. Tăng cường hơn nữa việc áp dụng công nghệ thông tin vào quá trình xây dựng văn bản để tổ chức, cá nhân có thể tham gia ý kiến trực tiếp, phản biện trong quá trình soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật. Hoàn thiện cơ sở dữ liệu quốc gia về hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về ngành, lĩnh vực và cung cấp thông tin thường xuyên, liên tục để đáp ứng cho người có nhu cầu khai thác, sử dụng.
ĐÀO THỊ HỒNG MINH (Vụ Các vấn đề chung về xây dựng pháp luật - Bộ Tư pháp) / TAPCHIDANCHUVAPHAPLUAT