Thẩm phán, Hội thẩm ra bản án trái pháp luật có thể bị phạt tù đến 15 năm

17/05/2020 20:46 | 3 năm trước

(LSO) - Chủ thể của tội phạm ra bản án trái pháp luật chỉ có thể là Thẩm phán, Hội thẩm của Tòa án nhân dân, Tòa án quân sự các cấp. Tội ra bản án trái pháp luật có khách thể xâm phạm tính đúng đắn của hoạt động tố tụng; đến uy tín của cơ quan tiến hành tố tụng (cơ quan xét xử) và xâm phạm đến các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.

Có thể định nghĩa, ra bản án trái pháp luật là hành vi cố ý ban hành và công khai bản án trái pháp luật đó (như tuyên đọc hay tống đạt bản án đó) cho những người tham gia tố tụng, cơ quan, tổ chức có liên quan.

Bản án có thể bị ra trái pháp luật bao gồm: Bản án sơ thẩm, bản án phúc thẩm, quyết định giám đốc thẩm hoặc tái thẩm (về hình sự, dân sự, lao động, kinh doanh thương mại hoặc hành chính).

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.

Bản án được coi là trái pháp luật, nếu trong đó chứa đựng các nội dung, những vấn đề không đúng với các quy định của pháp luật (ví dụ như bản án hình sự trái pháp luật là bản án kết án một người nhưng đó là hành vi không cấu thành tội phạm; người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự hoặc không có năng lực trách nhiệm hình sự mà vẫn bị kết án) hoặc không phù hợp với các tình tiết khách quan của vụ án.

Theo cấu thành của “Tội ra bản án trái pháp luật”, thì nội dung trái pháp luật của bản án có thể là một phần hoặc toàn bộ bản án như quá nhấn mạnh hoặc quá chú ý đến một số tình tiết này mà bỏ qua các tình tiết khác để kết luận về tội nhẹ hơn hoặc nặng hơn; quyết định mức hình phạt quá nhẹ hoặc quá nặng so với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội để buộc tội hoặc miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt không có căn cứ theo ý chí chủ quan; ra phán quyết không căn cứ vào các tình tiết thực tế của vụ tranh chấp dân sự, kinh tế, lao động,… và trái với quy định của pháp luật, gây thiệt hại cho quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.

Tội ra bản án trái pháp luật được coi là hoàn thành từ thời điểm bản án được tuyên đọc hay tống đạt cho những người tham gia tố tụng dưới bất kỳ hình thức nào. Khi xem xét trách nhiệm hình sự về hành vi này cần chú ý:
- Hành vi thêm bớt, sửa đổi, đánh tráo, hủy hoặc làm hư hỏng các tài liệu, vật chứng của vụ án, Thẩm phán, Hội thẩm, nhằm hợp thức hóa việc ra bản án trái pháp luật, thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hai tội, đó là: “Tội ra bản án trái pháp luật (Điều 370) và Tội làm sai lệch hồ sơ vụ án, vụ việc (Điều 375)”.
- Việc ra bản án thuộc thẩm quyền của Hội đồng xét xử theo nguyên tắc “Tòa án xét xử tập thể và quyết định theo đa số”. Vì vậy, bản án trái pháp luật phải là bản án do đa số các thành viên Hội đồng xét xử biểu quyết (ít  nhất từ 02 người trở lên). Do vậy, cần chú ý phân biệt:

a, Trong trường hợp chỉ có thiểu số thành viên của Hội đồng xét xử biểu quyết ra bản án trái pháp luật thì hành vi đó của thành viên không bị truy cứu trách nhiệm hình sự;
b, Trong trường hợp chỉ có 2/3 thành viên (hoặc 3/5 thành viên – nếu là Hội đồng xét xử gồm 5 người) biểu quyết ra bản án trái pháp luật, thì các thành viên (đa số) đó bị truy cứu trách nhiệm hình sự; các thành viên (thiểu số phản đối) không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội phạm này;
c, Nếu tất cả thành viên của Hội đồng xét xử đều nhất trí ra bản án đó, thì tất cả đều bị truy cứu trách nhiệm hình sự về “Tội ra bản án trái pháp luật”.

– Nếu do việc điều tra không đầy đủ, thiếu khách quan, các tài liệu về vụ án bị làm sai lệch từ giai đoạn điều tra (như thay đổi hay hủy bỏ lời khai của bị can, bị cáo bị làm giả, thay đổi giấy chứng thương, hủy bỏ kết quả giám định…) mà Hội đồng xét xử không phát hiện được nên đã ra bản án không phù hợp với các tình tiết khách quan của vụ án, thì hành vi của các thành viên trong Hội đồng xét xử không bị coi là đã cấu thành tội phạm quy định tại Điều 370 BLHS 2015.

Trường hợp Thẩm phán (chủ tọa phiên tòa) lợi dụng lòng tin hoặc sự hạn chế về trình độ của Hội thẩm để “thuyết phuc” họ đồng ý ra bản án trái pháp luật theo ý mình thì các Hội thẩm không phải chịu trách nhiệm về tội này mà có thể bị xử lý hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự về “Tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng”, theo quy định tại Điều 360 BLHS 2015, nếu gây hậu quả nghiêm trọng.

Chủ thể của tội phạm ra bản án trái pháp luật chỉ có thể là Thẩm phán, Hội thẩm của Tòa án nhân dân, tòa án quân sự các cấp. Tội ra bản án trái pháp luật được thực hiện với lỗi cố ý; người phạm tội biết rõ bản án mà mình ban hành là trái pháp luật, gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, các tổ chức, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân nhưng vẫn thực hiện.

Cố nhiên, hành vi ra bản án trái pháp luật do trình độ nghiệp vụ yếu kém hoặc thiếu trách nhiệm…, thì có thể bị xử lý hành chính (nếu chưa gây hậu quả nghiêm trọng) hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự về "Tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng" (Điều 360), nếu đã gây hậu quả nghiêm trọng.

Tội ra bản án trái pháp luật được quy định tại Điều 370 BLHS 2015; tội này có 3 khung hình phạt chính và một khung hình phạt bổ sung. Trong đó, khung 3 quy định mức hình phạt tù từ 10 năm đến 15 năm.

Điều 370. Tội ra bản án trái pháp luật
1. Thẩm phán, Hội thẩm nào ra bản án mà mình biết rõ là trái pháp luật, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:
a, Phạm tội 02 lần trở lên;
b, Đối với người dưới 18 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu;
c, Kết án oan người vô tội về tội phạm nghiêm trọng hoặc tội phạm rất nghiêm trọng;
d, Bỏ lọt tội phạm nghiêm trọng hoặc tội phạm rất nghiêm trọng; người phạm tội nghiêm trọng hoặc phạm tội rất nghiêm trọng;
đ, Gây rối loạn tâm thần và hành vi của bị cáo, người bị hại, đương sự mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;
e, Gây thiệt hại về tài sản từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng;
g, Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 15 năm:
a, Kết án oan người vô tội về tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;
b, Bỏ lọt tội phạm đặc biệt nghiêm trọng hoặc người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng;
c, Gây rối loạn tâm thần và hành vi của bị cáo, người bị hại, đương sự mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;
d, Dẫn đến bị cáo, người bị hại, đương sự tự sát;
đ, Gây thiệt hại về tài sản 1.000.000.000 đồng trở lên.
4. Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm.

Luật sư LÊ TRỌNG HÙNG

/day-nhanh-tien-do-trien-khai-ghi-am-ghi-hinh-viec-hoi-cung-bi-can.html