/ Nghiên cứu - Trao đổi
/ Bàn về vấn đề bảo lãnh để thực hiện nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật Dân sự 2015

Bàn về vấn đề bảo lãnh để thực hiện nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật Dân sự 2015

19/09/2023 06:19 |

(LSVN) - Giao dịch dân sự là một trong những phương thức hữu hiệu cho các chủ thể tham gia xác lập và thực hiện các quyền, nghĩa vụ dân sự nhằm thỏa mãn các nhu cầu sinh hoạt trong cuộc sống thường ngày. Để cho các giao dịch này ngày càng phát triển về số lượng cũng như về mặt giá trị, đặc biệt nhằm đảm bảo an toàn cho các giao dịch, Bộ luật Dân sự đã quy định rất nhiều biện pháp bảo đảm, trong đó có biện pháp bảo lãnh. Tuy nhiên, vấn đề này còn tiềm ẩn nhiều rủi ro, các quy định về bảo lãnh trong pháp luật dân sự cần được tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện. Xuất phát từ yêu cầu trên, bài viết này sẽ đem đến một cái nhìn tương đối về biện pháp bảo lãnh để có một cái nhìn đa chiều, hiểu rõ sâu sắc hơn về những hạn chế, bất cập còn tồn tại. Từ đó, sẽ tránh những mâu thuẫn xảy ra không đáng có về vấn đề này.

Ảnh minh họa.

Bảo lãnh được quy định tại Điều 335 Bộ luật Dân sự 2015, cụ thể: “Bảo lãnh là việc người thứ ba (sau đây gọi là bên bảo lãnh) cam kết với bên có quyền (sau đây gọi là bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (sau đây gọi là bên được bảo lãnh), nếu khi đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ”.

Như vậy, nghĩa vụ mà bên bảo lãnh sẽ thực hiện thay có thể là nghĩa vụ trả tiền hoặc nghĩa vụ làm một công việc cho nên khi xác lập bảo lãnh thì bên nhận bảo lãnh cần phải kiểm tra bên bảo lãnh có khả năng thực tế để thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh hay không. Khi đến hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ thì bên bảo lãnh phải thực hiện thay cho bên được bảo lãnh. Tuy nhiên, các bên có thể thỏa thuận bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ nếu bên được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình. Trường hợp này, bên bảo lãnh phải chứng minh bên được bảo lãnh còn khả năng thực hiện nghĩa vụ thì bên bảo lãnh chưa phải thực hiện thay nghĩa vụ cho bên được bảo lãnh.

Chấm dứt việc bảo lãnh được quy định tại Điều 343, Bộ luật Dân sự 2015 khi xảy ra trường hợp sau:

“Bảo lãnh chấm dứt trong các trường hợp sau đây:

Nghĩa vụ được bảo đảm bằng bảo lãnh chấm dứt;

Việc bảo lãnh được hủy bỏ hoặc được thay thế bằng biện pháp bảo đảm khác;

Bên bảo lãnh đã thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh;

Theo thỏa thuận của các bên”.

Bảo lãnh là biện pháp dự phòng bảo đảm cho nghĩa vụ chính. Nếu nghĩa vụ chính thực hiện xong hoặc các bên trong nghĩa vụ chính thỏa thuận chấm dứt nghĩa vụ hoặc do các căn cứ khác mà nghĩa vụ chính chấm dứt thì biện pháp bảo lãnh cũng chấm dứt. Biện pháp bảo lãnh phải thực hiện khi nghĩa vụ chính bị vi phạm, cho nên nghĩa vụ chính không còn tồn tại thì bảo lãnh chấm dứt. Khi các bên lựa chọn biện pháp bảo đảm là bảo lãnh, thì phải giao kết một hợp đồng bảo lãnh vì thế hợp đồng bảo lãnh chấm dứt dựa trên các căn cứ chấm dứt hợp đồng là hủy bỏ hợp đồng, cho nên khi các bên thỏa thuận hủy bỏ bảo lãnh thì nghĩa vụ chính không có biện pháp bảo đảm. Các bên trong nghĩa vụ chính có thể thỏa thuận về thay thế biện pháp bảo lãnh bằng một biện pháp bảo đảm khác như cầm cố hoặc thế chấp thì biện pháp bảo lãnh chấm dứt, biện pháp mới thay thế sẽ bảo đảm cho nghĩa vụ chính. Khi bên được bảo lãnh không thực hiện nghĩa vụ thì bên bảo lãnh phải thực hiện thay nên bên bảo lãnh có thể tự giác thực hiện thay nghĩa vụ hoặc theo yêu cầu của bên nhận bảo lãnh mà bên bảo lãnh thực hiện thay nghĩa vụ. Trường hợp bên bảo lãnh cố tình không thực hiện thay mà phải áp dụng các biện pháp tư pháp thì nghĩa vụ bảo lãnh chấm dứt. Bên bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh có thể thỏa thuận chấm dứt nghĩa vụ bảo lãnh khi biện pháp bảo lãnh chấm dứt thì nghĩa vụ chính không có biện pháp bảo đảm, cho nên bên có nghĩa vụ phải tự mình thực hiện nghĩa vụ và chịu trách nhiệm dân sự đối với bên có quyền nếu vi phạm nghĩa vụ.

Một số vấn đề phát sinh của chế định bảo lãnh để thực hiện nghĩa vụ từ thực tiễn hiện nay, cụ thể:

Thứ nhất, trách nhiệm pháp lý của các bên trong quan hệ bảo lãnh thường là nguyên nhân dẫn đến tranh chấp trong quá trình ký kết, thực hiện hợp đồng bảo lãnh như: Trong vụ án của Ngân hàng TMCP VA có phát hành chứng thư bảo lãnh cho Ngân hàng QĐ - Chi nhánh Bắc Sài Gòn nhằm đảm bảo cho nghĩa vụ tài chính của Công ty CP Thương mại dịch vụ xây dựng TT (sau đây gọi là Công ty TT) tại Ngân hàng TMCP QĐ - Chi nhánh Bắc Sài Gòn theo Hợp đồng số 122 giữa Công ty TT và Tổng công ty VTQĐ - Chi nhánh TP. Hồ Chí Minh. Trong chứng thư có nêu Ngân hàng TMCP VA “cam kết chi trả vô điều kiện ” cho Ngân hàng TMCP QĐ ngay khi nhận được văn bản yêu cầu thanh toán nếu Công ty TT không thực hiện nghĩa vụ tài chính phát sinh tại Ngân hàng TMCP QĐ theo Hợp đồng số 122. Tuy nhiên, Ngân hàng TMCP VA nghi ngờ Công ty TT không phát sinh nghĩa vụ trên thực tế đối với Ngân hàng TMCP QĐ. Trong trường hợp này, Ngân hàng TMCP VA phải thực hiện nghĩa vụ tài chính ngay khi Ngân hàng TMCP QĐ - Chi nhánh Bắc Sài Gòn yêu cầu hay ngược lại Ngân hàng TMCP VA có quyền yêu cầu Ngân hàng TMCP QĐ phải xuất trình được các chứng từ chứng minh nghĩa vụ của Công ty TT đã phát sinh và chỉ thực hiện nghĩa vụ tài chính sau khi Ngân hàng TMCP QĐ xuất trình các chứng từ này.

Ví dụ nêu trên cho thấy, một trong các nguyên nhân chính dẫn đến tranh chấp là do các bên trong quan hệ bảo lãnh đã có cách hiểu khác nhau về nội hàm của cụm từ “cam kết chi trả vô điều kiện”. Nếu thỏa thuận như vậy thì Ngân hàng TMCP VA có được quyền yêu cầu Ngân hàng TMCP QĐ xuất trình các tài liệu chứng minh không? Việc yêu cầu xuất trình các tài liệu chứng minh trước khi thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh có vi phạm thỏa thuận không? Như vậy, vấn đề nêu trên nếu không được quy định cụ thể, rõ ràng thì sẽ tiếp tục dẫn đến cách hiểu và áp dụng pháp luật thiếu thống nhất giữa các bên trong quan hệ bảo lãnh.

Thứ hai, thiếu thống nhất khi nhận diện, phân biệt giữa quan hệ bảo lãnh với quan hệ thế chấp để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của người khác. Theo nội dung của Bản án sơ thẩm số 26/2011/KT-ST ngày 05/8/2011 và Bản án sơ thẩm số 48/2011/KDTM-ST ngày 22/9/2011 thì một trong những lý do dẫn đến hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của người thứ ba bị tuyên vô hiệu là có sự nhầm lẫn về hình thức hợp đồng, cụ thể là theo các bản án nêu trên thì hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của người thứ ba thực chất phải là quan hệ bảo lãnh. Do đó, các bên phải ký kết hợp đồng bảo lãnh, chứ không phải hợp đồng thế chấp để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của người thứ ba. Việc các bên ký kết hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của người thứ ba là không đúng với tính chất của giao dịch dân sự có biện pháp bảo đảm bằng hình thức bảo lãnh, không đúng với quy định về điều kiện có hiệu lực và hình thức của giao dịch dân sự.

Vấn đề này hiện nay có hai quan điểm khác nhau ngay cả khi Bộ luật Dân sự năm 2015 đã có hiệu lực. Loại ý kiến thứ nhất đồng ý với cách tiếp cận, giải thích nêu trên. Trong khi đó, loại ý kiến thứ hai cho rằng, theo quy định tại khoản 1 Điều 317 Bộ luật Dân sự 2015 thì “Thế chấp tài sản là việc một bên (sau đây gọi là bên thế chấp) dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ và không giao tài sản cho bên kia (sau đây gọi là bên nhận thế chấp)” nên chủ sở hữu tài sản có thể dùng tài sản để bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ của chính mình (bên thế chấp đồng thời là bên có nghĩa vụ) hoặc bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ của người khác (bên thế chấp và bên có nghĩa vụ là 02 chủ thể khác nhau).

Các quy định về bảo lãnh trong Bộ luật Dân sự 2015 (từ Điều 335 đến Điều 343) đã thể hiện được đầy đủ, sâu sắc. Tuy nhiên, để góp phần khắc phục vướng mắc, bất cập phát sinh từ thực tiễn áp dụng biện pháp bảo lãnh thì có một số kiến nghị, đề xuất sau đây:

Thứ nhất, tiếp tục quy định cụ thể các vấn đề liên quan đến bên bảo lãnh, ví dụ như: Quy định về việc bên bảo lãnh phải viết rõ giá trị tiền cam kết bảo lãnh bằng số và bằng chữ; quy định về việc bên nhận bảo lãnh có nghĩa vụ phải thông tin đối với bên bảo lãnh (tư vấn hoặc cảnh báo) về giá trị của nghĩa vụ bảo lãnh, khả năng tài chính của bên được bảo lãnh; giải thích cụ thể từ góc độ pháp lý một số từ ngữ thường sử dụng trong hợp đồng bảo lãnh như là chi trả vô điều kiện.

Thứ hai, quy định cụ thể trường hợp bên nhận bảo lãnh phải yêu cầu bên được bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ bằng tài sản của mình trước; nếu bên được bảo lãnh không có tài sản thì bên nhận bảo lãnh mới có quyền yêu cầu bên bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. Điều này là cần thiết nhằm phòng ngừa khả năng bên bảo lãnh chối bỏ trách nhiệm của mình, vì thực tế cho thấy trong nhiều trường hợp bên bảo lãnh xác định mình là người có nghĩa vụ thứ hai và chỉ thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh khi người có nghĩa vụ chính (bên được bảo lãnh) không có khả năng thực hiện.

Thứ ba, quy định việc bên bảo lãnh có quyền viện dẫn tất cả những vi phạm về hình thức và nội dung mà bên được bảo lãnh có thể viện dẫn để không phải thực hiện nghĩa vụ đối với bên nhận bảo lãnh, vì đây là một yếu tố mấu chốt, thể hiện tính phụ thuộc của biện pháp bảo lãnh đối với nghĩa vụ được bảo lãnh. Bộ luật Dân sự chỉ đề cập đến tình huống pháp lý là người bảo lãnh được viện dẫn việc bù trừ nghĩa vụ, trong khi trên thực tế vẫn còn các trường hợp khác như là có sự nhầm lẫn hoặc nghĩa vụ thanh toán khoản nợ được bảo lãnh không có hiệu lực.

Thứ tư, quy định về điều kiện đối với bên bảo lãnh, vì khả năng bên bảo lãnh thực hiện đầy đủ, đúng cam kết bảo lãnh là vấn đề đặc biệt quan trọng khi áp dụng biện pháp bảo lãnh. Do vậy, không phải ngẫu nhiên mà pháp luật một số nước (ví dụ: Cộng hòa Pháp, Nhật Bản) quy định khả năng thanh toán nợ là một trong các điều kiện bắt buộc của bên bảo lãnh. Ngoài ra, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần quy định cụ thể, rõ ràng phạm vi trách nhiệm và cách thức xử lý trách nhiệm về tài sản đối với các bên trong trường hợp bảo lãnh một phần và bảo lãnh toàn bộ nghĩa vụ theo khoản 1 Điều 336 Bộ luật Dân sự 2015.

Thứ năm, về quy định việc có thỏa thuận sử dụng biện pháp bảo đảm bằng tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh theo khoản 3 Điều 336 Bộ luật Dân sự 2015 còn có nhiều cách hiểu và áp dụng quy định trên trong thực tiễn còn khác nhau nên cần sớm có quy định chi tiết về một số vấn đề như là Hình thức hợp đồng, quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ này khác gì với quan hệ cầm cố, thế chấp để bảo đảm nghĩa vụ của người khác? Cách thức xử lý tài sản bảo đảm được dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh? Phạm vi trách nhiệm của bên bảo lãnh trong trường hợp này khác gì với các trường hợp thông thường khác.

PHẠM VĂN PHƯƠNG

Toà án Quân sự Quân khu 7

Bàn về việc áp dụng biện pháp dẫn giải đối với trường hợp bị hại từ chối giám định

Nguyễn Hoàng Lâm