Bị can Nguyễn Thị Thanh Nhàn.
Vừa qua, Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an đã ra Quyết định truy nã đối với bị can Nguyễn Thị Thanh Nhàn, Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty Cổ phần Tiến bộ Quốc tế (AIC). Cơ quan điều tra xác định thời điểm tống đạt lệnh khởi tố, bắt tạm giam (ngày 29/4) đối với bà Nguyễn Thị Thanh Nhàn thì bà này đã bỏ trốn.
Theo quyết định truy nã, bị can Nguyễn Thị Thanh Nhàn bị khởi tố tội danh "Vi phạm quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng" quy định tại khoản 3, Điều 222 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017). Bị can đã bỏ trốn ngày 19/6/2021.
Vậy, theo quy định của pháp luật việc bị can vắng mặt khỏi nơi cư trú trước khi có quyết định khởi tố thì có bị truy nã hay không?
Liên quan đến vấn đề này, theo Tiến sĩ, Luật sư Đặng Văn Cường, Trưởng Văn phòng Luật sư Chính pháp, truy nã tội phạm là hoạt động tố tụng hình sự nhằm phát hiện, tìm kiếm, bắt giữ người có hành vi phạm tội đang lẩn trốn theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền, phục vụ cho công tác điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án phạt tù hoặc tử hình.
Truy nã là việc cơ quan điều tra ra quyết định để truy tìm tung tích của người vi phạm pháp luật hình sự (đã có hoặc chưa có bản án xét xử của Tòa án) khi người đó bỏ trốn hoặc không biết đang ở đâu. Truy nã được thực hiện bằng quyết định truy nã.
Cơ quan có thẩm quyền chỉ được ra quyết định truy nã khi có đủ các điều kiện sau đây:
- Đối tượng: Bị can, bị cáo; người bị kết án trục xuất, người chấp hành án trục xuất; người bị kết án phạt tù; người bị kết án tử hình; người đang chấp hành án phạt tù, người được tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù, người được hoãn chấp hành án bỏ trốn hoặc không biết đang ở đâu.
- Có đủ căn cứ xác định đối tượng trên đã bỏ trốn hoặc không biết đang ở đâu và đã tiến hành các biện pháp xác minh, truy bắt nhưng không có kết quả;
- Đã xác định chính xác lý lịch, các đặc điểm để nhận dạng đối tượng bỏ trốn.
Theo Điều 112 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, bất cứ ai cũng có quyền bắt và giải ngay người đang bị truy nã đến cơ quan công an, Viện kiểm sát, ủy ban nhân dân nơi gần nhất. Các cơ quan này phải lập biên bản tiếp nhận và báo ngay hoặc giải ngay người bị truy nã đến cơ quan có thẩm quyền.
Như vậy truy nã bị can là một thủ tục tố tụng nhằm tìm kiếm bị can bỏ trốn hoặc không xác định được tung tích, làm cơ sở bắt giữ bị can để tạm giam, phục vụ công tác điều tra. Truy nã bị can được quy định tại Điều 231 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 như sau:
“1. Khi bị can trốn hoặc không biết rõ bị can đang ở đâu thì Cơ quan điều tra phải ra quyết định truy nã bị can.
2. Quyết định truy nã ghi rõ họ tên, ngày, tháng, năm sinh, nơi cư trú của bị can, đặc điểm để nhận dạng bị can, tội phạm mà bị can đã bị khởi tố và các nội dung quy định tại khoản 2 Điều 132 của Bộ luật này; kèm theo ảnh bị can (nếu có). Quyết định truy nã bị can được gửi cho Viện Kiểm sát cùng cấp và thông báo công khai để mọi người phát hiện, bắt người bị truy nã.
3. Sau khi bắt được bị can theo quyết định truy nã thì Cơ quan điều tra đã ra quyết định truy nã phải ra quyết định đình nã. Quyết định đình nã được gửi cho Viện Kiểm sát cùng cấp và thông báo công khai.".
Như vậy, nếu bị can bỏ trốn hoặc cơ quan điều tra không xác định được bị can ở đâu khi khởi tố bị can thì đều có quyền ra quyết định truy nã bị can theo quy định của pháp luật.
Trong quá trình truy nã bị can, nếu có căn cứ cho thấy bị can đang trốn tránh ở quốc gia có Hiệp định tương trợ tư pháp với Việt Nam thì cơ quan tố tụng Việt Nam cũng có quyền căn cứ vào nội dung Hiệp định tương trợ tư pháp để yêu cầu nước sở tại bắt giữ và dẫn độ bị can về Việt Nam để xử lý theo quy định pháp luật.
Trường hợp bị can trốn tránh ở quốc gia chưa có Hiệp định tương trợ tư pháp với Việt Nam thì cơ quan tiến hành tố tụng cũng có thể thông qua con đường ngoại giao, căn cứ vào các tập quán quốc tế để yêu cầu nước sở tại phối hợp bắt giữ và dẫn độ đối tượng về nước để giải quyết theo quy định pháp luật.
TIẾN HƯNG