Luật sư Đặng Văn Cương tại phiên tòa.
Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ chính trị về cải cách tư pháp đến năm 2020 ghi nhận: "Đào tạo, phát triển đội ngũ Luật sư đủ về số lượng, có phẩm chất chính trị, đạo đức, có trình độ chuyên môn. Hoàn thiện cơ chế bảo đảm để Luật sư thực hiện tốt việc tranh tụng tại phiên tòa, đồng thời xác định rõ chế độ trách nhiệm đối với Luật sư. Nhà nước tạo điều kiện về pháp lý để phát huy chế độ tự quản của tổ chức Luật sư; đề cao trách nhiệm của các tổ chức Luật sư đối với thành viên của mình.".
Những năm gần đây, cùng với sự phát triển và nhu cầu của xã hội thì số lượng và chất lượng của Luật sư tăng lên nhanh chóng. Nhờ có sự quan tâm của đảng, của nhà nước đối với hoạt động bổ trợ tư pháp nói chung, đối với hoạt động hay Luật sư gọi chưa thể hoạt động hành nghề của các Luật sư cũng dễ dàng hơn trước rất nhiều, đặc biệt là trong lĩnh vực tranh tụng.
Sự phát triển của kinh tế xã hội khiến nhu cầu về dịch vụ pháp lý ngày càng gia tăng, ý thức tôn trọng pháp luật của người dân và doanh nghiệp ngày càng nâng cao, đó là cơ hội thuận lợi để các Luật sư có thể hành nghề trên nhiều lĩnh vực như: tư vấn đầu tư, tư vấn doanh nghiệp, các hoạt động đại diện và tham gia tố tụng.
Nguồn đầu vào của Luật sư cũng rất đa dạng, chia làm hai nhóm chính là các cán bộ của các cơ quan tư pháp nghỉ hưu tham gia hành nghề Luật sư và một nguồn chủ yếu nữa là từ các sinh viên luật, có định hướng nghề nghiệp Luật sư ngay từ đầu. Sự đa dạng của các độ tuổi, kinh nghiệm từng trải của các Luật sư lớn tuổi và sự nhanh nhẹn, am hiểu khoa học, công nghệ của các Luật sư trẻ là những lợi thế, vốn quý để giới Luật sư học hỏi lẫn nhau, hỗ trợ lẫn nhau để cùng phát triển.
Quá trình hành nghề Luật sư thì mỗi lĩnh vực lại đòi hỏi những kỹ năng, kiến thức, kinh nghiệm khác nhau. Mỗi lĩnh vực hành nghề Luật sư lại có những khó khăn khác nhau. Tuy nhiên, nhìn chung trong thời gian gần đây thì hoạt động hành nghề Luật sư trong lĩnh vực tư vấn và tranh tụng đều có những bước phát triển đáng ghi nhận. Số lượng các doanh nghiệp cần, tư vấn của Luật sư ngày càng nhiều, các Luật sư hoạt động tư vấn doanh nghiệp, tư vấn đầu tư ngày càng chuyên nghiệp, đáp ứng được nhu cầu của xã hội và ngày càng không thể thiếu trong các quan hệ kinh tế quốc tế.
Trong lĩnh vực tranh tụng, số các vụ án hình sự, dân sự, kinh doanh thương mại, lao động, hành chính có sự tham gia của Luật sư ngày càng nhiều và rộng khắp trên cả nước. Không chỉ ở các thành phố lớn mà rất nhiều tỉnh lẻ lực lượng Luật sư cũng ngày càng phát triển, tham gia đông đảo trong các vụ án góp phần bảo vệ công lý, đảm bảo tính công bằng, minh bạch trong hoạt động tố tụng.
Những đóng góp của Luật sư Việt Nam không chỉ đảm bảo sự công bằng, bình đẳng trong xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà nước, của tổ chức, của cá nhân, được nhân dân tin yêu, quý trọng mà những đóng góp về kinh tế cũng rất đáng ngợi ca. Từ các hoạt động nghề nghiệp, từ các dịch vụ pháp lý mà giới Luật sư cũng đã đóng góp thuế thu nhập và các khoản chi phí, nghĩa vụ tài chính vào ngân sách nhà nước đáng kể, nâng cao vị thế và vai trò của Luật sư đối với xã hội.
Hoạt động nghề nghiệp Luật sư ngày càng mang lại nhiều giá trị cho xã hội, được xã hội ghi nhận. Trong bối cảnh hợp tác kinh tế quốc tế sâu rộng thì nhu cầu về Luật sư trong các hợp đồng, giao dịch, các quan hệ kinh tế quốc tế ngày càng lớn. Bởi vậy, xu hướng đào tạo của các cơ sở đào tạo luật cũng hướng đến mục tiêu hội nhập kinh tế quốc tế, chuẩn bị lực lượng Luật sư có chất lượng cho các quan hệ kinh tế, quốc tế. Ngày nay, các bạn trẻ theo học chuyên ngành luật của các cơ sở đào tạo luật có định hướng nghề nghiệp Luật sư ngay từ đầu ngày càng nhiều khiến đội ngũ Luật sư được bổ sung một lực lượng có chất lượng, có đam mê và có rất nhiều cơ hội để phát triển nghề nghiệp.
Bên cạnh những thuận lợi trong hoạt động nghề nghiệp thì việc hành nghề Luật sư vẫn còn những khó khăn nhất định, có thể kể đến như tư duy, nhận thức của nhiều người dân vẫn còn lạc hậu, bị ảnh hưởng nặng nề của văn hóa làng xã theo kiểu "phép vua thua lệ làng". Thói quen dùng "lệ làng" chống lại "phép vua" của thời phong kiến kéo dài, trở thành hệ tư tưởng của nhiều người, đặc biệt là người dân khu vực miền Bắc. Chính vì muốn chống lại pháp luật đô hộ Phương Bắc mà người dân sử dụng "lệ làng", lâu dần thành quen, dẫn đến nhiều người thiếu hiểu biết pháp luật, thiếu tôn trọng pháp luật hoặc coi nhẹ, khinh nhờn, pháp luật nên chưa tiếp cận nhiều với dịch vụ pháp lý, chưa hiểu hết giá trị, vai trò của Luật sư trong các quan hệ dân sự, hành chính, kinh tế, trong hoạt động tố tụng. Những người này thường dùng tình cảm để giải quyết các mối quan hệ liên quan đến pháp luật và coi nhẹ giá trị của pháp luật nên thờ ơ với các dịch vụ pháp lý. Thói quen, nét văn hóa này ảnh hưởng đến việc thực hiện pháp luật cũng như sử dụng dịch vụ pháp lý của Luật sư.
Một số cán bộ, công chức vẫn có những tư tưởng, suy nghĩ, cách làm việc cũ, lạc hậu nên rất e ngại khi Luật sư tham gia vào các hoạt động hành chính, tư pháp. Họ chưa hiểu hết giá trị trong hoạt động hành nghề Luật sư, coi nhẹ sự có mặt của Luật sư trong các quan hệ hành chính, pháp lý. Bởi vậy nhiều người tìm cách lảng tránh, thậm chí gây khó khăn, phiền hà cho hoạt động hành nghề Luật sư.
Các quy định của pháp luật đã tạo hành lang pháp lý quan trọng cho hoạt động hành nghề Luật sư, đặc biệt là các bộ luật tố tụng hình sự, tố tụng dân sự, tố tụng hành chính và các văn bản pháp luật có liên quan. Trong những năm qua, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật ghi nhận khá nhiều "quyền" cho Luật sư trong các hoạt động hành chính, tư pháp, đảm bảo quyền hành nghề Luật sư. Tuy nhiên vấn đề "đảm bảo quyền", trình tự thủ tục để thực hiện quyền, vai trò trách nhiệm của cơ quan chức năng trong việc đảm bảo quyền của Luật sư vẫn còn thiếu sót, mâu thuẫn, khó áp dụng, dẫn đến Luật sư vẫn bị làm khó trong quá trình hành nghề, đặc biệt là trong quá trình tham gia tố tụng. Hoạt động hành nghề Luật sư trong giai đoạn xác minh tin báo vào giai đoạn điều tra vụ án hình sự vẫn gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là những vụ án kêu oan, những vụ án phức tạp hoặc khi những vụ việc có dấu hiệu, biểu hiện tiêu cực.
Ngoài ra, chưa có cơ chế cụ thể để đảm bảo các quyền của Luật sư, chưa có những chế tài, những biện pháp để xử lý đối với các cán bộ, cơ quan, tổ chức trong việc cản trở hoạt động hành nghề Luật sư dẫn đến nhiều cán bộ, cơ quan, tổ chức vẫn làm quyền, vi phạm quyền hành nghề Luật sư, gây bức xúc trong dư luận.
Công tác tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật ở nhiều nơi, nhiều lúc chưa đạt hiệu quả cao dẫn đến ý thức tôn trọng pháp luật, sử dụng pháp luật trong đó có sử dụng dịch vụ pháp lý của Luật sư ở nhiều địa phương, nhiều khu vực chưa tốt dẫn đến những hiện tượng nhũng nhiễu, tiêu cực, các hành vi vi phạm pháp luật còn diễn ra phổ biến.
Chưa có chính sách riêng, định hướng, chiến lược phát triển lâu dài đối với nghề nghiệp Luật sư. Sự quan tâm, hỗ trợ của nhà nước đối với hoạt động nghề nghiệp Luật sư vẫn chưa tương xứng với vị trí, vai trò, tầm quan trọng của Luật sư đối với hoạt động cải cách tư pháp cũng như đối với sự phát triển của xã hội. Các bạn trẻ theo nghề Luật sư ngay từ khi tốt nghiệp đại học đang gặp rất nhiều khó khăn trong việc tích lũy kinh nghiệm và thu nhập. Phần lớn các Luật sư trẻ đều khó khăn về tài chính và ít có cơ hội được cọ xát, tiếp xúc với các dịch vụ pháp lý dẫn đến việc theo nghề, xây dựng, thực hiện ước mơ, lý tưởng hành nghề Luật sư của nhiều người gặp khó khăn, nhiều bạn trẻ đã phải rẽ ngang, bỏ cuộc.
Bởi vậy, để phát triển nghề nghiệp Luật sư tương xứng với vai trò và vị thế trong xã hội thì cần phải thực hiện một số các giải pháp như:
- Cần có sự quan tâm nhiều hơn nữa của đảng và nhà nước đối với hoạt động hành nghề Luật sư. Cần phải có những chính sách cụ thể, chiến lược lâu dài đối với việc xây dựng đội ngũ Luật sư chuyên nghiệp, chuyên sâu đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế xã hội, hội nhập kinh tế quốc tế. Đảm bảo vệ chính sách, hoàn thiện hệ thống pháp luật, hỗ trợ về kinh tế, tài chính, đặc biệt là trụ sở làm việc của Liên đoàn Luật sư Việt Nam, các Đoàn Luật sư để nâng cao vị thế, vai trò của Luật sư đối với xã hội;
- Hoàn thiện hệ thống pháp luật từ luật Luật sư, các văn bản pháp luật về tố tụng và các quy định khác có liên quan để đảm bảo ghi nhận đầy đủ quyền cũng như các biện pháp đảm bảo thực hiện quyền của Luật sư trong quá trình hành nghề;
- Cần có chiến lược lâu dài để xây dựng đội ngũ Luật sư ngày càng chuyên nghiệp, có chuyên môn sâu, có kỹ năng kinh nghiệm tốt, sử dụng thành thạo ngoại ngữ để hội nhập kinh tế quốc tế và đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội, yêu cầu trong hoạt động tố tụng;
- Cần xây dựng các quỹ tài năng để thu hút các Luật sư trẻ có cơ hội phát triển nghề nghiệp, tăng cường đào tạo bồi dưỡng chất lượng cho Luật sư đặc biệt là Luật sư phục vụ hội nhập kinh tế quốc tế;
- Cần phải xây dựng các cơ chế phối hợp, các quy định pháp luật rõ ràng để làm rõ trách nhiệm, xử lý vi phạm đối với các cơ quan, tổ chức, cá nhân khi có hành vi cản trở hoạt động nghề nghiệp Luật sư;
- Các Luật sư cần có ý thức trong việc xây dựng hình ảnh, đạo đức nghề nghiệp Luật sư để nâng cao vị thế vai trò của Luật sư đối với xã hội;
Đặc biêt là nâng cao năng lực, vai trò của Liên đoàn Luật sư Việt Nam và Đoàn Luật sư các địa phương để đảm bảo công tác quản lý Luật sư cũng như là các đầu mối huy động trí tuệ, năng lực của Luật sư phục vụ nhiệm vụ chính trị, xã hội. Hoạt động bảo vệ quyền lợi Luật sư được quan tâm chú trọng và thực hiện tốt hơn để đảm bảo quyền hành nghề Luật sư cũng như phát huy vai trò, uy tín của Luật sư đối với xã hội.
Luật sư ĐẶNG VĂN CƯỜNG
Đoàn Luật sư TP. Hà Nội
Bài phát biểu của Luật sư tại phiên tòa hướng đến những nhóm chủ thể nào?
Những ai có thể tham gia bào chữa trước tòa theo quy định tại Bộ luật Tố tụng hình sự?
(LSVN) – Theo quy định của pháp luật hiện hành, ngoài Luật sư thì còn có những ai có thể tham gia bào chữa trước tòa?
Ảnh minh họa.
Điều 72 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2017 quy định rõ về người bào chữa. Theo đó, người bào chữa là người được người bị buộc tội nhờ bào chữa hoặc cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng chỉ định và được cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng tiếp nhận việc đăng ký bào chữa.
Người bào chữa có thể là:
- Luật sư;
- Người đại diện của người bị buộc tội;
- Bào chữa viên nhân dân;
- Trợ giúp viên pháp lý trong trường hợp người bị buộc tội thuộc đối tượng được trợ giúp pháp lý.
Bào chữa viên nhân dân là công dân Việt Nam từ 18 tuổi trở lên, trung thành với Tổ quốc, có phẩm chất đạo đức tốt, có kiến thức pháp lý, đủ sức khỏe bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao, được Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hoặc tổ chức thành viên của Mặt trận cử tham gia bào chữa cho người bị buộc tội là thành viên của tổ chức mình.
Những người sau đây không được bào chữa:
- Người đã tiến hành tố tụng vụ án đó; người thân thích của người đã hoặc đang tiến hành tố tụng vụ án đó;
- Người tham gia vụ án đó với tư cách là người làm chứng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật;
- Người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự, người bị kết án mà chưa được xoá án tích, người đang bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, cơ sở giáo dục bắt buộc.
Một người bào chữa có thể bào chữa cho nhiều người bị buộc tội trong cùng vụ án nếu quyền và lợi ích của họ không đối lập nhau. Nhiều người bào chữa có thể bào chữa cho một người bị buộc tội.
Khi đăng ký bào chữa, người bào chữa phải xuất trình các giấy tờ:
- Luật sư xuất trình Thẻ luật sư kèm theo bản sao có chứng thực và giấy yêu cầu luật sư của người bị buộc tội hoặc của người đại diện, người thân thích của người bị buộc tội;
- Người đại diện của người bị buộc tội xuất trình Chứng minh nhân dân hoặc thẻ Căn cước công dân kèm theo bản sao có chứng thực và giấy tờ có xác nhận của cơ quan có thẩm quyền về mối quan hệ của họ với người bị buộc tội;
- Bào chữa viên nhân dân xuất trình Chứng minh nhân dân hoặc thẻ Căn cước công dân kèm theo bản sao có chứng thực và văn bản cử bào chữa viên nhân dân của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận;
- Trợ giúp viên pháp lý, luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý xuất trình văn bản cử người thực hiện trợ giúp pháp lý của tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý và Thẻ trợ giúp viên pháp lý hoặc Thẻ luật sư kèm theo bản sao có chứng thực.
Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi nhận đủ giấy tờ theo quy định trên cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kiểm tra giấy tờ và thấy không thuộc trường hợp từ chối việc đăng ký bào chữa theo quy định thì vào sổ đăng ký bào chữa, gửi ngay văn bản thông báo người bào chữa cho người đăng ký bào chữa, cơ sở giam giữ và lưu giấy tờ liên quan đến việc đăng ký bào chữa vào hồ sơ vụ án; nếu xét thấy không đủ điều kiện thì từ chối việc đăng ký bào chữa và phải nêu rõ lý do bằng văn bản.
HỒNG HẠNH
Xe kinh doanh vận tải không đổi biển trắng sang biển vàng sẽ bị phạt như thế nào?
Vấn đề giao dịch vô hiệu khi bên chuyển nhượng tài sản là người phải thi hành án
(LSVN) - Trong thực tiễn hiện nay, nhiều trường hợp người phải thi hành bản án, quyết định của Tòa án hoặc cơ quan có thẩm quyền khác đã có hiệu lực pháp luật, theo đó họ có nghĩa vụ phải trả tiền hoặc thực hiện các nghĩa vụ khác với một hoặc các bên khác có liên quan. Thế nhưng, trong khi tài sản mà người phải thi hành án đang có không được tuyên xử lý theo bản án, cũng không bị kê biên, chưa bị áp dụng các biện pháp tư pháp hoặc hành chính khác do đó họ vẫn tiến hành các giao dịch liên quan đến tài sản. Vậy khi nào thì giao dịch về tài sản của người phải thi hành án bị xem là vô hiệu, pháp luật hiện hành quy định về vấn đề này như thế nào và thực tiễn áp dụng trên thực tế hiện nay ra sao? Chúng tôi sẽ dẫn một tình huống thực tiễn để cùng thảo luận về vấn đề đáng quan tâm này.
Theo quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 26/2018/QĐST-DS ngày 22/8/2018 của TAND quận K, ông N có nghĩa vụ trả nợ cho bà T số tiền là 23 tỷ đồng định kỳ hàng tháng, thời điểm trả nợ bắt đầu từ ngày 30/10/2018.
Trong thời gian từ ngày 22/8/2018 đến ngày 3/11/2018, ông N có một thửa đất đứng tên ông được thế chấp tại Ngân hàng H để cho công ty A vay vốn, sau đó tài sản này đã được giải chấp vào ngày 03/11/2018. Ngày 6/11/2018, ông N dùng quyền sử dụng thửa đất nói trên để thế chấp cho công ty A vay vốn tại Ngân hàng Đ với số tiền vay là 20 tỷ đồng.
Bà T cho rằng, từ thời điểm từ ngày 03/11/2018 đến ngày 06/11/2018, ông Nam có tài sản là quyền sử dụng đất, nhưng đã không dùng tài sản này thực hiện nghĩa vụ thanh toán nợ cho bà T mà lại dùng để thế chấp cho Ngân hàng Đ vay vốn cho Công ty A là có hành vi giả tạo, gian dối, tẩu tán tài sản nhằm trốn tránh nghĩa vụ trả nợ cho bà T. Do đó bà T đã khởi kiện yêu cầu tuyên hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất giữa ông N và Ngân hàng Đ là vô hiệu. Kết quả, cả bản án sơ thẩm của TNND quận K và bản án phúc thẩm của TAND TP N đều không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà T, Tòa cho rằng ông N đã từng dùng tài sản này thế chấp trước đó, nay thế chấp lại cho Ngân hàng khác để Công ty A vay vốn thì không xem là trường hợp tẩu tán tài sản, trốn tránh nghĩa vụ trả nợ đối với bà T [1].
I. Giao dịch về tài sản của người phải thi hành án bị xem là vô hiệu theo quy định của pháp luật hiện hành
Theo quy định hiện hành, điều kiện để một giao dịch dân sự được xem là có hiệu lực khi đảm bảo đầy đủ các điều kiện như sau: (i) Về điều kiện để giao dịch dân sự có hiệu lực thì cần: Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập; Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện; Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội. (ii) Về hình thức, hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự trong trường hợp luật có quy định[2]. Những giao dịch không có một trong các điều kiện được quy định nêu trên thì vô hiệu, trừ trường hợp Bộ luật dân sự 2015 có quy định khác [3].
Riêng đối với hợp đồng về tài sản của người phải thi hành án có thể được xem xét trong bài viết này là trường hợp người phải thi hành án thực hiện giao dịch giả tạo để trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba. Theo quy định của Bộ luật dân sự 2015 trường hợp này được xem là một giao dịch vô hiệu[4]. Có ý kiến cho rằng để để xem giao dịch đó vô hiệu thì phải chứng minh được giao dịch đó có hai dấu hiệu: (i) có tồn tại giao dịch giả tạo và (ii) mục đích xác lập giao dịch nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba[5]. Tuy nhiên, quy định của Bộ luật dân sự 2015 mang tính bao quát cho nhiều hình thức giao dịch giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với bên thứ ba chứ không phải là quy định riêng cho trường hợp của người phải thi hành án như bài viết này đề cập.
Đối với trường hợp giao dịch của người phải thi hành án, nghĩa vụ phải thi hành án đã được thể hiện rõ trong bản án mà họ có trách nhiệm thi hành, do đó các yếu tố như dấu hiệu giả tạo hay không, có mục đích trốn tránh việc trả nợ hay không dường như không cần chứng minh, các quy định của pháp luật hiện hành chỉ ra trường hợp cụ thể nào thì giao dịch được xem là vô hiệu.
Theo quy định tại Nghị định số 62/2015/NĐ-CP, kể từ thời điểm bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật, nếu người phải thi hành án chuyển đổi, tặng cho, bán, chuyển nhượng, thế chấp, cầm cố tài sản cho người khác mà không sử dụng khoản tiền thu được để thi hành án và không còn tài sản khác hoặc tài sản khác không đủ để đảm bảo nghĩa vụ thi hành án thì tài sản đó vẫn bị kê biên, xử lý để thi hành án, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Khi kê biên tài sản, nếu có người khác tranh chấp thì Chấp hành viên thông báo cho đương sự, người có tranh chấp thực hiện theo quy định tại Khoản 1 Điều 75 Luật Thi hành án dân sự[6].
Quy định nêu trên của Nghị định số 62/2015/NĐ-CP nay đã được sửa đổi, bổ sung bằng quy định tại khoản 11 Điều 1 Nghị định số 33/2020/NĐ-CP, theo đó trường hợp có giao dịch về tài sản mà người phải thi hành án không sử dụng toàn bộ khoản tiền thu được từ giao dịch đó để thi hành án và không còn tài sản khác hoặc có tài sản khác nhưng không đủ để bảo đảm nghĩa vụ thi hành án thì, tùy từng trường hợp xử lý như sau:
(i) Trường hợp có giao dịch về tài sản nhưng chưa hoàn thành việc chuyển quyền sở hữu, sử dụng thì Chấp hành viên tiến hành kê biên, xử lý tài sản theo quy định. Khi kê biên tài sản, nếu có tranh chấp thì Chấp hành viên thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 75 Luật Thi hành án dân sự (thông báo cho đương sự, người có tranh chấp về quyền của họ được khởi kiện tại Tòa án hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền giải quyết), trường hợp cần tuyên bố giao dịch vô hiệu hoặc yêu cầu cơ quan có thẩm quyền hủy giấy tờ liên quan đến giao dịch thì thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 75 Luật Thi hành án dân sự (thông báo cho người được thi hành án để yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch đó vô hiệu hoặc yêu cầu cơ quan có thẩm quyền hủy giấy tờ liên quan đến giao dịch đó).
(ii) Trường hợp có giao dịch về tài sản kể từ thời điểm bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật nhưng đã hoàn thành việc chuyển quyền sở hữu, sử dụng thì Chấp hành viên không kê biên tài sản mà thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 75 Luật Thi hành án dân sự [thông báo cho người được thi hành án để yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch đó vô hiệu hoặc yêu cầu cơ quan có thẩm quyền hủy giấy tờ liên quan đến giao dịch đó] và có văn bản thông báo cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan để phối hợp tạm dừng việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng tài sản. Việc xử lý tài sản được thực hiện theo quyết định của Tòa án hoặc cơ quan có thẩm quyền.
(iii) Trường hợp có các giao dịch khác liên quan đến tài sản mà không chuyển giao quyền sở hữu tài sản, quyền sử dụng đất cho người khác thì Chấp hành viên tiến hành kê biên, xử lý tài sản để thi hành án. Quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia giao dịch được thực hiện theo quy định của pháp luật về dân sự và các quy định của pháp luật có liên quan[7].
Như vậy, việc xác định dấu hiệu để chứng minh một giao dịch về tài sản của người phải thi hành án có vô hiệu hay không, theo quy định tại Nghị định số 62/2015/NĐ-CP chỉ cần xác định các nội dung (i) đã có bản án/quyết định có hiệu lực pháp luật xác định người phải thi hành án và (ii) người phải thi hành án đã thực hiện giao dịch mà không dùng khoản tiền thu được từ giao dịch đó để thi hành án trong trường hợp không có tài sản khác hoặc tài sản khác không đủ để đảm bảo nghĩa vụ thi hành án. Nghị định số 62/2015/NĐ-CP quy định luôn các dấu hiệu để xác định một giao dịch như thế nào là trốn tránh nghĩa vụ thi hành án, và do đó xác định bằng chính hành vi của người thi hành án trên thực tế chứ không xác định bằng mục đích, ý chí, tư tưởng bên trong của người phải thi hành án hay là suy luận chủ quan của bất kỳ ai khác. Việc xác định các dấu hiệu giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ trả nợ bằng cách nêu rõ các điều kiện cụ thể này nhằm nhận diện ngay được mà không cần chứng minh, không cần suy luận thêm, đảm bảo hiệu quả của thi hành án nhưng trên hết nhằm đảm bảo rằng bản án/quyết định của Tòa án và nghĩa vụ theo đó phải được đảm bảo thực thi.
Về bản chất, quy định của Nghị định số 33/2020/NĐ-CP sửa đổi bổ sung chỉ có tính chất làm rõ hơn các trường hợp khác nhau thì có cách thức xử lý khác khi thực tế giao dịch có chuyển giao quyền sở hữu tài sản hay không hoặc đã chuyển giao quyền sở hữu, sử dụng hay chưa. Tuy nhiên, quy định của Nghị định số 33/2020/NĐ-CP cũng giống Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ở chỗ xác định hai dấu hiệu để xác định một giao dịch về tài sản của người phải thi hành án vô hiệu khi trên thực tế có những điều kiện cụ thể sau: (i) người có tài sản giao dịch đang phải thi hành án theo bản án/quyết định đã có hiệu lực của tòa án và (ii) có giao dịch về tài sản mà không dùng tiền có được từ giao dịch đó để thi hành án và không còn tài sản khác hoặc có tài sản khác nhưng không đủ để bảo đảm nghĩa vụ thi hành án.
So với quy định trường hợp được xem là một giao dịch vô hiệu do giả tạo để trốn tránh nghĩa vụ với bên thứ ba theo quy định của Bộ luật dân sự 2015, các quy định hướng dẫn pháp luật thi hành án đã không có nội hàm bao quát thành các dấu hiệu để thực tiễn phải chứng minh giao dịch đó là vô hiệu hay không, các quy định tại Nghị định 62/2015/NĐ-CP hay Nghị định số 30/2020/NĐ-CP xác định các điều kiện cụ thể mà không cần phải chứng minh thêm, nếu đủ các điều kiện đó thì giao dịch về tài sản được xem là vô hiệu.
II. Giao dịch của người phải thi hành án có bị vô hiệu hay không nhìn từ một tình huống áp dụng pháp luật thực tiễn
Như được trình bày ở trên, đối chiếu với tình huống thực tiễn ở đầu bài viết thì có thể thấy, kể từ thời điểm có bản án/quyết định đã có hiệu lực pháp luật mà ông N mang tài sản đi thế chấp cho Ngân hàng Đ, không dùng khoản tiền thu được từ việc thế chấp đó để thi hành án và không còn tài sản khác hoặc tài sản khác không đủ để đảm bảo nghĩa vụ thi hành án thì việc thế chấp bị xem là vô hiệu và tài sản thế chấp đó vẫn bị kê biên để xử lý thi hành án. Trường hợp có tranh chấp thì các bên khởi kiện ra tòa án để yêu cầu tòa án truyên hợp đồng thế chấp vô hiệu. Cần lưu ý, tại thời điểm ký hợp đồng thế chấp giữa ông N và Ngân hàng Đ vào ngày 06/11/2018 thì Nghị định số 62/2015/NĐ-CP đã có hiệu lực thi hành. Nghị định này như đã nói chỉ quy định rằng tại thời điểm khi đã có bản án/quyết định đã có hiệu lực pháp luật thì nghĩa vụ tuân thủ thi hành án của ông N phải thực thi.
Đối chiếu với trường hợp của ông N, chúng ta có thể thấy các điều kiện của giao dịch vô hiệu đã rõ, (i) tại thời điểm ông N ký hợp đồng thế chấp với Ngân hàng Đ thì đã có quyết định của Tòa án có hiệu lực tuyên ông N phải trả nợ cho bà T, (ii) ông N đã ký hợp đồng thế chấp tài sản của mình cho bên thứ ba vay vốn và số tiền vay này lại không được dùng trả nợ cho bà T, trong khi không có tài sản khác hoặc tài sản khác không đủ để trả nợ cho bà T theo quyết định công nhận sự thỏa thuận của Tòa án. Như vậy, các dấu hiệu đó đã xác định hợp đồng thế chấp tài sản của ông N cho Ngân hàng Đ là vô hiệu và tài sản đó phải xử lý để thi hành án theo quy định của Nghị định số 62/2015/NĐ-CP, được sửa đổi bởi Nghị định số 30/2020/NĐ-CP. Các quy định tại các Nghị định được viện dẫn này không đưa ra thêm các dấu hiệu nào khác, không buộc phải chứng minh có giả tạo hay không giả tạo, có mục đích trốn tránh nghĩa vụ trả nợ hay không trốn tránh trả nợ, mà xác định cụ thể luôn trường hợp một giao dịch về tài sản của người phải thi hành án được thực hiện trong hoàn cảnh, điều kiện nào thì vô hiệu.
Thế nhưng, theo những gì mà cả hai bản án sơ thẩm và phúc thẩm tuyên liên quan đến tình huống này, Hội đồng xét xử không căn cứ vào các quy định của pháp luật đặc thù trong trường hợp giao dịch của người phải thi hành án, mà căn cứ vào các dấu hiệu chung của một giao dịch dân sự giả tạo để nhận định giao dịch thế chấp của ông N có vô hiệu hay không. Theo đó, nhận định của Tòa án có thể thấy việc suy luận trước đó tài sản này đã thế chấp ở một Ngân hàng khác, nay thế chấp lại là bình thường, có tính liên tục cho nên không phải là giả mạo để trốn tránh nghĩa vụ trả nợ. Nhưng chúng ta có thể đặt ra hoài nghi là, bằng cách nào mà Hội đồng xét xử đọc được ý chí, mục đích bên trong của ông N, khi ông dùng tài sản thế chấp cho công ty A để vay tiền mà không dùng tiền để trả cho bà T mà không phải là trốn tránh nghĩa vụ trả nợ. Bản án của các cấp tòa án trong trường hợp này, bằng suy luận chủ quan trong đánh giá đã vô hiệu hóa hiệu lực của các quy định pháp luật về thi hành án khi xác định một giao dịch của người phải thi hành án là vô hiệu. Hơn nữa, như các quy định được dẫn ở trên, việc xác định giao dịch của người phải thi hành án có vô hiệu hay không vô hiệu không cần chứng minh về ý chí, mục đích của người phải thi hành án hay không, mà chỉ cần có đủ điều kiện người phải thi hành án đã có những hành vi cụ thể nào liên quan đến tài sản mà họ đang có để xác định. Các quy định của pháp luật không cần xác định có sự liên tục hay không liên tục trong các giao dịch về thế chấp của ông N, cũng không cần biết trước đó ông N đã thế chấp nên giờ mang tài sản đi thế chấp lần khác, quy định chỉ cần chỉ ra tại thời điểm thực hiện giao dịch về tài sản của người phải thi hành án có các điều kiện đảm bảo một giao dịch được xác định là vô hiệu. Những suy luận của Tòa án tại các bản án là suy luận theo hướng đánh giá về giao dịch giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ trả nợ theo quan điểm chung của Bộ luật dân sự 2015, nhưng lại không phù hợp với đặc thù riêng của giao dịch đối với người phải thi hành án.
Đứng trước sự xung đột trong việc xác định một giao dịch như thế nào là vô hiệu nhìn từ quy định của Bộ luật dân sự 2015 với quy định của pháp luật về thi hành án dân sự, có thể cần phải viện dẫn quy định về nguyên tắc áp dụng văn bản pháp luật trong trường hợp ưu tiên áp dụng luật chuyên ngành để giải quyết sự xung đột này. Như thế, nếu căn cứ vào khoản 2 Điều 75 của Luật thi hành án dân sự 2008 (được sửa đổi bổ sung năm 2014) và các quy định tại Nghị định số 62/2015/NĐ-CP và Nghị định số 30/2020/NĐ-CP thì không cần chứng minh thêm căn cứ nào khác để xác định giao dịch của người phải thi hành án là vô hiệu thì chỉ cần xác định, tại thời điểm giao dịch: (i) đã có bản án/quyết định đã có hiệu lực của tòa án và (ii) có giao dịch về tài sản mà không dùng tiền có được từ giao dịch đó để thi hành án và không còn tài sản khác hoặc có tài sản khác nhưng không đủ để bảo đảm nghĩa vụ thi hành án. Hai điều kiện này mặc nhiên chứng minh cho dấu hiệu xác lập giao dịch giả tạo để trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba quy định tại khoản 2, Điều 124 Bộ luật dân sự 2015.
Theo quy định của pháp luật hiện hành về pháp luật chuyên ngành, việc quy định riêng đối với các trường hợp đặc thù cần xác định dấu hiệu và điều kiện như thế nào để đảm bảo một giao dịch được thực hiện đúng pháp luật là cần thiết. Chúng ta thấy rõ các điều kiện về một giao dịch tài sản được phép thực hiện trong các văn bản chuyên ngành như Luật đất đai, Luật Nhà ở là rất phổ biến. Đối với trường hợp quy định của pháp luật về thi hành án dân sự cũng vậy, để đảm bảo bản án/quyết định đã có hiệu lực pháp luật được tuân thủ và đảm bảo sự nghiêm minh của pháp luật, tránh việc tẩu tán tài sản nhằm vô hiệu hóa nghĩa vụ phải thi hành án, luật thi hành án dân sự và các quy định liên quan đã có quy định rõ cụ thể điều kiện một giao dịch của người phải thi hành án bị xem là vô hiệu là cần thiết. Hơn nữa, đối chiếu với quy định tại Bộ luật dân sự 2015 có nêu việc luật khác có liên quan điều chỉnh quan hệ dân sự trong các lĩnh vực cụ thể không được trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự quy định tại Điều 3 của Bộ luật dân sự 2015[8]. Chúng tôi cho rằng, các quy định tại khoản 2 Điều 75 của Luật thi hành án dân sự 2008 (được sửa đổi bổ sung năm 2014) và Nghị định số 62/2015/NĐ-CP, Nghị định số 30/2020/NĐ-CP không những trái mà còn phù hợp với nguyên tắc của Bộ luật dân sự 2015 rằng cá nhân, pháp nhân phải xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình một cách thiện chí, trung thực và việc xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự không được xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác[9].
Như vậy, từ một tình huống thực tiễn chúng tôi nêu đầu bài viết, theo chúng tôi việc ông N dùng tài sản của mình thế chấp cho Ngân hàng Đ để cho công ty A vay tiền, mà không dùng số tiền có được từ giao dịch thế chấp đó trả nợ cho bà T thì giao dịch thế chấp của ông N phải bị xem là vô hiệu. Các quy định tại khoản 2 Điều 75 của Luật thi hành án dân sự 2008 (được sửa đổi bổ sung năm 2014) và được hướng dẫn tại Nghị định số 62/2015/NĐ-CP, Nghị định số 30/2020/NĐ-CP nêu rõ điều kiện để xem một giao dịch của người phải thi hành án là vô hiệu và không cần phải chứng minh thêm. Do đó, hiện nay Tòa án hai cấp xét xử trong vụ án nêu trên suy luận theo quan điểm riêng mà không dựa vào các quy định đặc thù của pháp luật về thi hành án dân sự có thể tạo ra một tiền lệ áp dụng pháp luật bất lợi cho người được thi hành án, đồng thời có thiên hướng cổ súy cho việc tẩu tán tài sản bằng những giao dịch trái quy định của pháp luật.
Từ thực tiễn xét xử còn có sự chống chếnh khách biệt nhau giữa quan điểm xét xử và nội dung quy định của pháp luật được nêu trong bài viết này, thiết nghĩ cần có quy định thống nhất để đảm bảo pháp luật được áp dụng nhất quán, không bị suy diễn một cách khác biệt nhằm đảm bảo cho các quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể thực sự được pháp luật bảo vệ trong công bằng, minh bạch.
[1] Bản án số 05/2021/DS-ST ngày 25-3-2021 về việc tranh chấp tuyên bố hợp đồng thế chấp vô hiệu của TAND quận Thanh Khê, TP Đà Nẵng và Bản án số 42/2021/DS-PT ngày 08-7-2021 về việc tranh chấp tuyên hộ hợp đồng thế chấp vô hiệu của TNND thành phố Đà Nẵng. [2] Xem Điều 117 Bộ luật dân sự 2015. [3] Điều 122 Bộ luật dân sự 2015. [4] Khoản 2, Điều 124 Bộ luật dân sự 2015. [5] Trương Nhật Quang (2020), Pháp luật về hợp đồng: Các vấn đề pháp lý cơ bản, trang 189. [6] Khoản 1, Điều 24, Nghị định số 62/2015/NĐ-CP. [7] Khoản 11 Điều 1 Nghị định số 33/2020/NĐ-CP. [8] Khoản 2, Điều 4 Bộ luật dân sự 2015. [9] Khoản 3, khoản 4 Điều 4 Bộ luật dân sự 2015. |
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO: 1. Bản án số 05/2021/DS-ST ngày 25/3/2021 về việc tranh chấp tuyên bố hợp đồng thế chấp vô hiệu của TAND quận Thanh Khê, TP. Đà Nẵng. 2. Bản án số 42/2021/DS-PT ngày 08/7/2021 về việc tranh chấp tuyên hộ hợp đồng thế chấp vô hiệu của TNND thành phố Đà Nẵng. 3. Bộ luật Dân sự 2015. 4. Luật Thi hành án dân sự 2008 (sửa đổi bổ sung năm 2014). 5. Nghị định số Nghị định số 62/2015/NĐ-CP (được sửa đổi bổ sung bằng Nghị định số 30/2020/NĐ-CP). 6. Trương Nhật Quang (2020), Pháp luật về hợp đồng: Các vấn đề pháp lý cơ bản, trang 189. |
Luật sư LÊ CAO